Saturday, July 22, 2017

CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VỚI BẢN SẮC TRUNG QUỐC

(Capitalism With Chinese Characteristics)

Tác giả: Trình Hiểu Nông (Cheng Xiaonong)

Nguồn: ĐKNTB

Đọc các bài: 
1. Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Từ chủ nghĩa xã hội tới chủ nghĩa tư bản
2. Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước
3. Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Cải cách doanh nghiệp nhà nước thông qua trộm cắp tràn lan
4. Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Tại sao ĐCSTQ không danh chính ngôn thuận từ bỏ chủ nghĩa Marxist
--------------------
Bài 1: Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Từ chủ nghĩa xã hội tới chủ nghĩa tư bản

Khi nền kinh tế tư bản Trung Quốc tạo thành một liên minh với chế độ đỏ, nó tạo thành một hệ thống kinh tế và chính trị độc nhất mà không thể được gọi là xã hội chủ nghĩa mà cũng không thể gọi là tư bản dân chủ. Tôi gọi nó là chủ nghĩa tư bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tôi tạo ra thuật ngữ này để nói đến hệ thống kinh tế tư bản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng hệ thống tư bản để tăng cường chế độ độc tài của mình, đây là điểm mấu chốt của mô hình Trung Quốc.

Mục tiêu của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong quá khứ là tiêu diệt tư bản. Chủ nghĩa Mao Trung Quốc hoàn toàn loại bỏ sở hữu tư nhân, và phần lớn tài sản vốn liếng bị tước đoạt khỏi tay người dân. Vào thời điểm đó, bên cạnh đặc quyền về chính trị, giới tinh hoa lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc và “thế hệ Đỏ thứ 2” không sở hữu hay thừa kế bất kỳ doanh nghiệp hay tài sản nào từ thế hệ đi trước.

Nhưng bắt đầu từ thời kỳ của Đặng Tiểu Bình, chế độ Cộng sản Trung Quốc và hệ thống kinh tế tư bản bắt tay nhau. Đảng Cộng sản Trung Quốc không chỉ cho phép sự phát triển của kinh tế tư bản mà tầng lớp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng tự mình trở thành những nhà tư bản giàu có và quyền lực nhất.

Điều đó không phải là một phát hiện mới khi nhìn nhận rằng các quốc gia Cộng sản sớm hay muộn cũng sẽ trở lại thành quốc gia tư bản. Năm 1988, một hội thảo thảo luận về cải cách Chủ nghĩa xã hội đã được tổ chức ở Viên – Áo. Một nhà kinh tế từ quốc gia Cộng sản Hungary đã có một tuyên bố gây sốc ở hội thảo. Ông phát biểu rằng cái gọi là Chủ nghĩa xã hội không có gì hơn là một quá trình chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa tư bản. Theo ông, Chủ nghĩa xã hội có đời sống ngắn ngủi và các quốc gia đã chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội sẽ sớm trở lại thành tư bản. Một năm sau đó, quan điểm của nhà kinh tế người Hungary này đã được khẳng định bởi sự tan rã của Liên bang Xô Viết và khối Cộng sản Đông Âu.

Phải chăng điều này có nghĩa là nền kinh tế có sự gắn kết mật thiết giữa doanh nhân và chính phủ là cách duy nhất để cải cách các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa? Mô hình Trung Quốc là không thể tránh khỏi? Sau nhiều năm nghiên cứu về sự chuyển đổi từ chủ nghĩa xã hội, tôi khám phá ra rằng có ít nhất ba con đường để trở lại tư bản từ xã hội chủ nghĩa, và Trung Quốc đã chọn con đường tồi tệ nhất.

Các con đường chuyển đổi từ xã hội chủ nghĩa sang tư bản

Khi một quốc gia cộng sản nói lời tạm biệt với mô hình xã hội chủ nghĩa Stalin, nó dấn mình vào con đường của sự chuyển đổi thể chế. Cái gọi là sự chuyển đổi là muốn nói tới việc tự do hóa và tái cấu trúc hệ thống kinh tế, nó bao gồm thay thế sở hữu tập thể bằng tư nhân hóa và thay thế nền kinh tế kế hoạch hóa bằng kinh tế định hướng thị trường, đồng thời là sự chuyển đổi chính trị trong vấn đề dân chủ hóa. Từ năm 1989 đến nay, các chế độ Cộng sản trên thế giới, trừ Bắc Triều Tiên, đã hoàn thành quá trình chuyển đổi hay đang trong quá trình chuyển đổi. Nhìn lại các con đường chuyển đổi, chúng ta có thể nhận thấy sự chuyển đổi kinh tế là tương đối dễ dàng và sự chuyển đổi chính trị diễn ra khó khăn hơn. Vào thập niên 80, Trung Quốc là một trong những nước tiên phong về chuyển đổi kinh tế. Kinh tế và xã hội Trung Quốc giờ đây tụt hậu về phía sau do từ chối dân chủ.

Trong tất cả các quốc gia Cộng sản, một khi quá trính chuyển đổi bắt đầu diễn ra, tầng lớp cộng sản lãnh đạo cố gắng sử dụng quyền lực để ăn chặn người dân. Tuy nhiên, tình huống này không phải là không thể tránh khỏi. Cho đến nay, nhìn chung có ba mô hình của quá trình chuyển đổi về kinh tế và xã hội của các quốc gia trước đây từng là xã hội chủ nghĩa.

Mô hình của Trung Âu

Đầu tiên là mô hình Trung Âu bao gồm Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Czech và Slovakia. Quá trình chuyển đổi chính trị ở ba quốc gia này được chi phối bới tầng lớp trí thức đối lập, sự tham gia vào kinh tế của tầng lớp cộng sản bị ngăn chặn. Lập trường chính yếu của tầng lớp tri thức đối lập là không chia sẻ quyền lực hay thỏa hiệp với bất kỳ ai từ tầng lớp cộng sản, thay vì thế họ xóa bỏ tàn tích của Văn hóa Đảng càng nhiều càng tốt.

Trong con mắt của người dân ở Trung Âu, Chế độ Cộng sản đơn thuần chỉ là những con rối của Liên bang Xô Viết mà nên được loại bỏ. Kết quả là, tầng lớp cộng sản ở Trung Âu không thể làm những gì họ muốn trong quá trình chuyển đổi, họ đối mặt với áp lực xã hội rất lớn. Họ không thể thao túng nghị viện hay làm giàu thông qua quá trình tư nhân hóa. Do đó, tầng lớp cộng sản hầu như không được hưởng lợi từ quá trình tái cấu trúc. Vị thế kinh tế chính trị của xấp xỉ 1/3 tầng lớp cộng sản đã rớt xuống, với khoảng một nửa phải về hưu sớm.

Một vài học giả Hoa Kỳ gọi mô hình chuyển đổi ở Trung Âu là “tạo ra chủ nghĩa tư bản mà không có các nhà tư bản”. Lập luận này là ý nhị, nó có nghĩa là “mà không có các nhà tư bản đỏ”. Những nhà tư bản cũ đã bị loại bỏ trong thời kỳ cộng sản. Nếu có rất nhiều người giàu mới nổi lên trong một thời gian ngắn sau quá trình tái cấu trúc, thì phần lớn họ là tầng lớp cộng sản. Nói tóm lại, mô hình Trung Âu là tái xây dựng chủ nghĩa tư bản mà không có tầng lớp cộng sản. Mô hình chuyển đổi này là bền vững. Nó tạm biệt chế độ cộng sản theo cách một đi không trở lại.

Mô hình của Nga

Con đường thứ hai là mô hình của Nga nơi mà tầng lớp cộng sản trước đây trở thành các nhà dân chủ. Họ có được lợi ích từ quá trình chuyển đổi và kiếm được rất nhiều tiền. Đồng thời, người dân cũng là một phần của quá trình tư nhân hóa và có thể có tài sản riêng.

Đây là con đường đặc trưng cho “Tầng lớp tinh hoa cũ khoác trên mình mô hình xã hội mới”. So sánh với mô hình Trung Âu, mô hình của Nga là “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Tầng lớp tinh hoa mới bao gồm chủ yếu là các quan chức cũ. Đây cũng là một kiểu của chủ nghĩa tư bản có sự gắn kết mật thiết giữa doanh nhân và chính phủ. Không giống như mô hình của Trung Quốc, thành viên của tầng lớp tinh hoa mới chuyển đổi từ cơ chế cũ không còn là thành viên của Đảng cộng sản. Trong mô hình của Nga, hệ thống dân chủ có thể dễ dàng bị thao túng bởi tầng lớp tinh hoa cũ, mặc dù không hoàn toàn trở lại thành cộng sản. Do vậy mô hình mới mang theo dấu ấn nặng nề của hệ thống cũ.

Mô hình Trung Quốc

Con đường thứ 3 là mô hình của Trung Quốc. Đặc tính chủ yếu của nó là: Đảng Cộng sản Trung Quốc từ bỏ hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa được tạo ra 30 năm đầu trong thời kỳ của Mao Trạch Đông, như là sỡ hữu toàn diện của nhà nước và kinh tế kế hoạch hóa. Nhưng nó dùng chủ nghĩa tư bản của Đảng cộng sản để tăng cường hệ thống độc tài được dựng lên bởi Mao.

Tầng lớp đỏ và người thân của họ là những người có khả năng làm giàu cao nhất, và họ bảo vệ đặc quyền của mình bằng quyền lực chính trị. Thân nhân của tầng lớp cấp cao đã thu lợi lớn trong khi quốc gia hứng chịu nạn tham nhũng nghiêm trọng trong quá trình tư nhân hóa.

Tham nhũng chính trị dẫn đến một điều không thể tránh khỏi là bất bình đẳng xã hội. Khi thịnh vượng và cơ hội nằm hoàn toàn trong sự điều khiển của tầng lớp trên của xã hội, phần lớn tầng lớp dưới chắc chắn sẽ trở nên căm giận với tầng lớp tinh hoa, quan chức và những người giàu có.

Bài 2: Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước

Đây là bài tiểu luận thứ hai trong một loạt bài gồm 4 phần, trong đó tác giả xem xét hai thập kỷ của sự cải cách dối trá các doanh nghiệp nhà nước.

Chuyến “Nam du” của Đặng Tiểu Bình năm 1992 được hệ thống tuyên truyền của chính quyền Trung Quốc đề cập tới như là một điểm khởi đầu mới cho cải cách. Trên thực tế, từ góc nhìn chuyển đổi thể chế, hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã chính thức kết thúc vào năm 1997, khi Trung Quốc bắt đầu triển khai tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

DNNN được coi như là một trong những trụ cột của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Khi hầu hết các DNNN được tư nhân hóa, hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ tan rã hoàn toàn bởi vì một hệ thống kinh tế đặc trưng bởi sở hữu tư nhân trên thực tế là đã theo chủ nghĩa tư bản.

Nhưng thật thú vị, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lại phủ nhận về chính sách tư nhân hóa của nó. Mặc dù điều đó thực sự đã diễn ra, ĐCSTQ chưa bao giờ thừa nhận rằng nó đã hoàn thành quá trình tư nhân hóa từ hơn một thập kỷ trước. Các nhà chức trách đã che đậy sự tư nhân hóa bằng thuật ngữ “cải cách DNNN”, nhưng cố ý tránh né đề cập đến việc nó [DNNN] được cải cách theo kiểu hệ thống nào. Trên thực tế, chỉ có hai khả năng cho sự cải cách DNNN: hoặc là tư nhân hóa hoàn toàn, trở thành một doanh nghiệp tư nhân hoàn chỉnh, hoặc tư nhân hóa một phần, cho phép sở hữu tư nhân một phần với phần chủ yếu được sở hữu bởi nhà nước.

Khủng hoảng ngân hàng thập niên 90

Có một lý do cho việc Chính phủ chọn tư nhân hóa nhưng vẫn cố ý giữ mập mờ về nó.
Chu Dung Cơ, thủ tướng Trung Quốc vào thời đó, đã xem xét tới hai yếu tố khi thực hiện sự quyết định. Thứ nhất, các DNNN đã trở thành gánh nặng tài chính nặng nề cho chính phủ, đẩy hệ thống ngân hàng đến bờ vực của sự sụp đổ. Các cải cách kinh tế dười thời Đặng Tiểu Bình không thể giải quyết các vấn đề nghiêm trọng mà các DNNN phải đối mặt, nó phụ thuộc vô điều kiện vào các khoản vay từ ngân hàng quốc doanh. Tuy nhiên, điều kiện kinh doanh suy thoái và rất nhiều DNNN ngừng chi trả các khoản nợ ngân hàng và thậm chí là các khoản lãi suất. Từ giữa thập niên 90 thế kỷ trước, một cuộc khủng hoảng tài chính hệ thống ngân hàng tiềm tàng trở nên ngày càng rõ ràng.

Vào đầu thập niên 90, hơn 20% các khoản nợ của 4 ngân hàng quốc doanh là nợ xấu. Vào năm 1994, ngành ngân hàng Trung Quốc lần đầu tiên hứng chịu sự thâm hụt nghiêm trọng khắp cả nước. Đến năm 1996, 70% tổng số khoản nợ ngân hàng đã trở thành nợ xấu hay nợ quá hạn.

Trong nửa sau của năm 1997, để cứu hệ thống ngân hàng khỏi bị sụp đổ, chính phủ đã phải triển khai một kế hoạch tái cấu trúc các DNNN – đó là tư nhân hóa – để đưa chính nó thoát khỏi phần lớn trong hơn 10.000 DNNN và “gánh nặng” của chúng lên nhà nước.

Các đòi hỏi của Tổ chức Thương mại Thế giới

Thêm vào đó, Trung Quốc háo hức muốn tham gia WTO để mở rộng xuất khẩu. Tuy nhiên WTO có điều kiện tiên quyết là Trung Quốc phải xây dựng một nền kinh tế thị trường trong vòng 15 năm, bãi bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa và triển khai tư nhân hóa các DNNN. Nếu Trung Quốc không thể chứng minh việc thực hiện tư nhân hóa DNNN, nó sẽ không được cho phép gia nhập WTO.

Vì Chính phủ và giới truyền thông đã che đậy sự thật về quá trình tư nhân hóa DNNN, những người mà chưa từng làm việc tại các DNNN đã không hiểu được ý nghĩa của “cải cách DNNN”. Trên thực tế, cái được gọi là “cải cách” là cho phép tư nhân hóa [hoàn toàn] các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và cho phép các DNNN lớn được niêm yết trên thị trường (chứng khoán) để tư nhân hóa một phần.

Chính quyền để các giám đốc và quản lý của các DNNN triển khai việc “tái cấu trúc” và sa thải. Bất kỳ sự bất mãn xã hội và giận dữ nào nổi lên từ quá trình cải cách do đó sẽ được chuyển vào những người này thay vì nhắm vào Chính phủ. Tất nhiên, các vị giám đốc và quản lý này không nhận chỉ trích một cách không công; họ được đền bù hậu hĩnh.

Câu hỏi chính trong mưu đồ tư nhân hóa này là: Ai sẽ mua các DNNN này? Cũng giống như trường hợp ở Nga, các giám đốc và quản lý của DNNN Trung Quốc không có hàng triệu hay hàng trăm triệu tiền tiết kiệm để mua được các doanh nghiệp, và nguồn vốn nước ngoài đóng một vai trò rất nhỏ trong quá trình tư nhân hóa DNNN. Trong trường hợp này, các nhà quản lý DNNN Trung Quốc trở thành các ông chủ mới, cơ bản là thông qua các phương thức bất hợp pháp.

Che đậy

Đây là lý do tại sao Chính phủ Trung Quốc không cho phép các nhà nghiên cứu quốc nội được nghiên cứu quá trình tư nhân hóa DNNN, và truyền thông Trung Quốc đơn giản là không đưa tin về sự thật.

Trớ trêu thay, mặc dù là một chủ đề cấm đối với truyền thông Trung Quốc và các nhà nghiên cứu [quốc nội], nó được mở cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc. Các nhà nghiên cứu ngoại quốc, thông qua các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, có thể tự do nhập cảnh vào Trung Quốc và tiến hành các khảo sát lấy mẫu trên toàn quốc về tình trạng sở hữu của các DNNN sau tư nhân hóa. Trong thập kỷ vừa qua, những nhà nghiên cứu này đã xuất bản một số cuốn sách bằng tiếng Anh về kết quả tư nhân hóa ở Trung Quốc. Tuy nhiên không một cuốn sách nào trong số đó được dịch hay xuất bản ở Trung Quốc.

Chính phủ Trung Quốc cho phép các nhà nghiên cứu ngoại quốc nghiên cứu quyền sở hữu DNNN nhằm để cung cấp thông tin về quá trình tư nhân hóa ở Trung Quốc cho Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế khác và để trải đường cho Trung Quốc gia nhập vào WTO.

Trong khi tư nhân hóa các DNNN Trung Quốc đã được công bố với thế giới, thái độ của chính phủ Trung Quốc bên trong Trung Quốc chỉ có thể được gọi là tự lừa dối.

Bài 3: Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Cải cách doanh nghiệp nhà nước thông qua trộm cắp tràn lan


Quá trình tư nhân hóa của các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc (DNNN) là một quá trình xây dựng hệ thống kinh tế tư bản. Những phương thức khác nhau của quá trình tư nhân hóa dẫn tới các hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản. Vào cuối năm 1997, thủ tướng Chu Dung Cơ đã khởi động cải cách doanh nghiệp nhà nước. Chính sách này được gọi là “nắm to bỏ nhỏ”.

“Nắm to” có nghĩa là duy trì sự kiểm soát các DNNN sở hữu tài sản quy mô lớn và những doanh nghiệp liên quan đến lợi ích quốc gia trong lĩnh vực tài chính, năng lượng, điện, viễn thông, vận tải… Sau khi tái cấu trúc, các doanh nghiệp này được cho phép niêm yết trên thị trường chứng khoán, và nó có thể bán một phần cổ phần của mình cho dân chúng Trung Quốc và các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nhà nước vẫn nắm giữ đa số cổ phần – có nghĩa là chính phủ tiếp tục “nắm” các công ty này.

“Bỏ nhỏ” có nghĩa là cho phép tư nhân hóa các DNNN nhỏ và những doanh nghiệp thua lỗ nghiêm trọng, làm như thế giải thoát chính phủ khỏi gánh nặng. Xem xét quá trình tư nhân hóa các DNNN vừa và nhỏ là xem xét ai sẽ mua chúng và bằng cách nào. Vào thời đó, lương trung bình hàng tháng của giám đốc và quản lý DNNN chỉ vài trăm nhân dân tệ. Thậm chí giới tinh hoa đỏ và người thân của họ cũng không có tài sản có giá trị tài chính đáng kể.

Cách tiếp cận mà Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nghĩ tới là chỉ thị quản lý các DNNN vay ngân hàng, và sử dụng DNNN như là tài sản thế chấp để “mua” tài sản nhà nước. Tiếp theo cho phép các quản lý tái đăng ký DNNN bằng tên của họ hay bằng tên của thành viên gia đình. Sau đó, với tư cách là chủ doanh nghiệp, họ sẽ sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp để hoàn trả các khoản nợ cá nhân.

Một cách tiếp cận khác là quản lý DNNN buộc người lao động mua một phần của doanh nghiệp. Người lao động phải sử dụng tiền tiết kiệm của gia đình để mua một phần công ty nhằm giữ việc làm. Nhưng người lao động không được cho phép tham gia vào quá trình chuyển nhượng tài sản của doanh nghiệp. Họ bị buộc phải cung cấp nguồn vốn để quản lý có thể nhận được quyền sở hữu công ty.

Cùng lúc đó, nhà cầm quyền cho phép gia đình của những người có chức vụ dành được cổ phần trong các doanh nghiệp lớn được niêm yết thông qua mạng lưới quan hệ cá nhân của họ. Họ nhận được những cổ phần miễn phí và thu lợi khổng lồ khi giá cổ phiếu gia tăng.

Hai giai đoạn của quá trình tư nhân hóa

Quá trình tư nhân hóa ở Trung Quốc bắt đầu vào nửa sau của năm 1997 và cơ bản hoàn thành vào năm 2009. Vào năm 1996, Trung Quốc có 110.000 DNNN và đến cuối năm 2008 còn lại 9.700 doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân hóa một phần trong đó chính phủ sở hữu đa số cổ phần. Quá trình tư nhân hóa được chia thành 2 giai đoạn.

Giai đoạn đầu tiên, từ năm 1997 đến 2001, là quá trình tư nhân hóa các DNNN vừa và nhỏ. Phần lớn các doanh nghiệp này được tư nhân hóa bởi các giám đốc và quản lý của DNNN.

Tôi đã phân tích 130 vụ việc tư nhân hóa trong 29 tỉnh và tóm tắt vài chiêu thức điển hình và sự ám muội của quá trình này qua công trình nghiên cứu cho luận án tiến sĩ xã hội học của tôi. Cách tiếp cận của họ thường là định giá thấp hơn thực tế tài sản ròng của doanh nghiệp. Các nhà quản lý sau đó mua doanh nghiệp bằng cách sử dụng nguồn vốn của chính doanh nghiệp hay khoản vay từ ngân hàng hoặc khoản vay cá nhân, và đăng ký doanh nghiệp dưới tên của mình hay người thân. Cuối cùng với danh tính chủ sở hữu của doanh nghiệp mới, họ sẽ hoàn trả nguồn vốn vay với thu nhập từ doanh nghiệp. Về cơ bản họ phải bỏ ra rất ít hoặc không mất gì cho những doanh nghiệp này.

Giai đoạn thứ 2, từ năm 2002 tới năm 2009, là quá trình tư nhân hóa các DNNN lớn và vừa. Cách tiếp cận là niêm yết DNNN sau khi tái cấu trúc, chuyển giao quyền sở hữu quản lý, buộc người lao động mua cổ phần, liên doanh nước ngoài, liên doanh với doanh nghiệp tư nhân. Bởi vì các doanh nghiệp này sở hữu tài sản quy mô lớn, quản lý không thể đủ tài chính để sở hữu toàn bộ chúng. Họ thường xuyên sử dụng nguồn vốn doanh nghiệp để mua cổ phần và chia chác cổ phần cho cán bộ quản lý, cũng như là các quan chức và người thân đã thông qua việc niêm yết, hình thành một nhóm có chung lợi ích. Các cán bộ DNNN và quan chức chính phủ trở thành ông chủ, tổng quản lý hay thành viên hội đồng quản trị của các DNNN lớn và vừa được niêm yết mà không mất chút chi phí nào của bản thân họ, và họ trở nên giàu có.

Theo dữ liệu từ hai cuộc điều tra mẫu cấp quốc gia, khoảng 50-60% các doanh nghiệp tư nhân hóa hay bán tư nhân hóa được sở hữu bởi đội ngũ quản lý doanh nghiệp. Xấp xỉ 25% người mua là các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp; ít hơn 2% cổ phần được sở hữu bởi đầu tư nước ngoài; và ít hơn 10% doanh nghiệp đồng sở hữu bởi quản lý và người lao động. Quản lý không cho phép cổ đông là người lao động tham gia vào quản lý tài sản và chuyển nhượng.

Kiểu tư nhân hóa này tương đương với việc người lao động trả tiền cho quản lý sở hữu các doanh nghiệp. Cải cách DNNN này có thể được gọi là ăn cướp công khai và chia chác tài sản giữa đội ngũ quản lý công ty, quan chức địa phương và con cháu của quan chức. Trong mọi trường hợp, chính quyền không thể biện minh một cách hợp lý cho kiểu hành vi cướp bóc này. Tiết lộ thông tin công khai sẽ gây ra phẫn nộ trong công chúng. Do đó, chính phủ không cho phép truyền thông quốc nội thảo luận về tư nhân hóa và các học giả Trung Quốc không được cho phép nghiên cứu quá trình tư nhân hóa.

Phúc lợi công cộng của người lao động giảm xuống

Từ năm 1998 tới năm 2003, khi tầng lớp tinh hoa đỏ chiếm dụng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên diện rộng thông qua quá trình tư nhân hóa, chính quyền đã cố ý đóng cửa Cục Quản lý Công sản trong 6 năm suốt giai đoạn đỉnh điểm quan trọng của quá trình tư nhân hóa, nhằm thuận tiện cho tầng lớp tinh hoa đỏ. Mặc dù vào năm 2003 Cục này đã được khôi phục, nó hiếm khi điều tra việc chiếm dụng tài sản công.

Giữa những năm 1997 và 2005, xung đột lao động quy mô lớn diễn ra khắp Trung Quốc châm ngòi bởi sự chiếm dụng tài sản công liên quan đến quá trình tư nhân hóa. Chính phủ về cơ bản đứng về phía quản lý bởi vì các quan chức cũng hưởng lợi từ tư nhân hóa. Quá trình tư nhân hóa tại Trung Quốc đã làm sụp đổ hệ thống phúc lợi ban đầu dựa trên DNNN. Rất nhiều công ty trả cho người lao động một ít tiền và đuổi họ đi. Vào thời kỳ đó, ĐCSTQ sử dụng tuyên truyền rằng cho người lao động nghỉ việc là một sự hy sinh cần thiết của đổi mới. Chính phủ không muốn xây dựng một hệ thống trợ cấp thất nghiệp thống nhất cho những người lao động này và quẳng vấn đề cho đội ngũ quản lý. Nếu người đứng đầu công ty không muốn chi trả, chính phủ sẽ không can thiệp. Do đó ĐCS Trung Quốc vô liêm sỉ trốn tránh trách nhiệm cung cấp trợ cấp xã hội cho người lao động.

Ngược lại, trong quá trình tư nhân hóa của Nga, hệ thống phúc lợi xã hội vẫn được duy trì, và một vài người lao động thất nghiệp có thể nhận được trợ cấp xã hội dù ít ỏi. Chính phủ Nga chưa từng áp dụng chính sách sa thải cưỡng bức và sử dụng các ưu đãi thuế để khuyến khích các công ty giữ chân người lao động. Người lao động sở hữu khoảng 40% các doanh nghiệp được tư nhân hóa.

So sánh với quá trình tư nhân hóa của các nước Trung Âu và Nga, những gì diễn ra ở Trung Quốc là bất công và tàn nhẫn nhất. Rõ ràng tái cấu trúc nền kinh tế dưới một chế độ độc tài có thể bất chấp công bằng xã hội mà không sợ hãi áp lực từ cử tri. Đối với tầng lớp tinh hoa, mô hình này tất nhiên mang lại sự thèm muốn, nhưng cảm xúc của công chúng thì có thể là ngược lại.

Một vài học giả phương Tây có quan niệm rằng chế độ độc tài cộng sản đã làm tốt trong việc tái cấu trúc và phát triển kinh tế, bởi vì họ đã có thể vượt qua kháng cự từ người dân, và Trung Quốc thường được viện dẫn như là hình mẫu tốt nhất của họ. Tuy nhiên, quá trình tư nhân hóa ở Trung Quốc chứng tỏ rằng một chính phủ độc tài có xu hướng phớt lờ công bằng xã hội, tước đi quyền và lợi ích của người dân, và dàn xếp dựa trên lợi ích của tầng lớp tinh hoa thống trị.

Bài 4: Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc: Tại sao ĐCSTQ không danh chính ngôn thuận từ bỏ chủ nghĩa Marxist

Kể từ khi ông Mác (Marx) sáng tạo ra lý thuyết cộng sản của mình, Trung Quốc đã trở thành hệ thống kinh tế tư bản đầu tiên dưới sự cai trị của đảng cộng sản. Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bắt đầu sự thống trị của mình bằng cách loại bỏ chủ nghĩa tư bản – chuyển hình thức sở hữu tư nhân sang hình thức sở hữu nhà nước – nhưng đã không thể tạo ra một hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa thành công. Cuối cùng, họ đã phải chuyển về hệ thống tư bản, nhằm kéo dài sự cai trị của mình.

Trong khi cải cách sang sở hữu tư nhân, các quan chức ĐCSTQ ở tất cả các cấp, và gia đình của mình, đã trở thành các doanh nhân, chủ bất động sản và chủ sở hữu các tài sản tài chính rất lớn. Quá trình tích lũy của cải của họ đầy đen tối và tội ác. Do đó họ cần chế độ cộng sản để bảo vệ tài sản và cuộc sống của mình, và họ cũng cần sự độc quyền của chính phủ để tiếp tục tích lũy của cải nhiều hơn nữa. Vì vậy những người này ủng hộ mạnh mẽ cho hệ thống hiện tại của Trung Quốc, chứ không trợ giúp cho dân chủ hóa [ở Trung Quốc].

Chiếm đoạt sai trái, bất hợp pháp

Làm thế nào mà tầng lớp lãnh đạo của ĐCSTQ đã từ chỗ không có gì để sở hữu lại trở thành siêu giàu có trong một thời gian ngắn từ 20 đến 30 năm? Điều này là bí mật của ‘các nhà tư bản cộng sản’, và là chỉ dẫn cho việc hiểu được hệ thống ‘tư bản cộng sản’ và khuynh hướng chính trị trong tương lai của các nhóm lợi ích của ĐCSTQ. Về cơ bản, họ đã đạt được nó thông qua việc tham ô, biển thủ, chiếm đoạt bất hợp pháp các tài sản nhà nước, duy trì sự độc quyền của các ngành quan trọng, và bằng cách thao túng các chính sách để đạt được lợi ích và duy trì chế độ độc tài của mình.

Chiếm đoạt bất hợp pháp các tài sản nhà nước là nói đến việc tầng lớp lãnh đạo ĐCSTQ đã trực tiếp tiếp quản các doanh nghiệp nhà nước (SOE) nhỏ và vừa, và có được cổ phần miễn phí tại các SOE lớn, trong quá trình tư nhân hóa.

Duy trì những ngành độc quyền là nói đến các SOE lớn trong những lĩnh vực tài chính, năng lượng, điện, giao thông, viễn thông và các ngành khác, trong đó tầng lớp đỏ hoặc con cháu thế hệ thứ hai của họ, nắm giữ những chức vụ quan trọng. Một vài các doanh nghiệp này nằm trong số 500 doanh nghiệp hàng đầu thế giới. Họ cung cấp một lượng lớn các khoản thu thuế để hỗ trợ cho chế độ [Trung Quốc] và giúp cho tầng lớp đỏ nhanh chóng trở nên giàu có, thông qua việc mua lại cổ phần, lại quả, và tiền thưởng.

Bằng cách gây ảnh hưởng và thao túng việc hoạch định – chính sách, tầng lớp đỏ và thân nhân của mình là những người đầu tiên tham gia vào nhiều dự án và các ngành kinh tế, từ đó đã dễ dàng kiếm được những lợi ích to lớn.

Duy trì chế độ độc tài là nói đến thái độ cực kỳ thù địch của tầng lớp đỏ đối với dân chủ hóa, và hy vọng của họ nhằm duy trì lâu dài quyền lực của chế độ đỏ, sao cho họ mãi mãi có đặc quyền và một lượng lớn của cải bất hợp pháp được bảo vệ bởi chế độ ĐCSTQ.

Các nhà tư bản đỏ

Khi một số lượng lớn các doanh nghiệp và sự giàu có của Trung Quốc nằm trong tay các nhà tư bản đỏ, hệ thống tin cậy duy nhất để bảo vệ cho họ không phải là nền kinh tế thị trường, cũng không phải là tinh thần thượng tôn pháp luật [hay pháp quyền], mà là “nền chuyên chính [hay sự độc tài] của giai cấp vô sản”, có nghĩa là họ luôn có quyền lực tuyệt đối trên tất cả các tầng lớp khác của xã hội.

Họ biết rõ ràng, rằng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền thống là không khả thi; họ có thể có được của cải một cách dễ dàng hơn nhiều so với của cải mà các doanh nhân ở các nước dân chủ kiếm được; họ cũng có một vị thế chính trị tuyệt vời mà không có cạnh tranh, và họ có thể ngăn chặn việc dân chủ hóa chính trị vốn có thể dẫn đến sự phá sản kinh tế và chính trị. Đây là bản chất của “mô hình Trung Quốc.”

Rõ ràng, dưới chế độ của ĐCSTQ, chủ nghĩa tư bản đỏ này sẽ không tự nhiên chuyển thành hệ thống dân chủ tư bản. Trong một thời gian dài, các học giả phương Tây đã tin tưởng rằng, sau tự do hóa kinh tế, tầng lớp lãnh đạo đỏ sẽ tự nhiên đi theo dân chủ và tự do. Sự chuyển đổi của Trung Quốc đã chứng minh rằng suy nghĩ này không những [rất] ngây thơ, mà còn sai lầm [nghiêm trọng].

Tuy nhiên, tầng lớp lãnh đạo đỏ cũng biết rất rõ về thực tế rằng, mô hình Trung Quốc phải đối mặt với các mối đe dọa liên tục từ [tầng lớp] thấp nhất của xã hội. Do đó, họ đã đang chuyển những tài sản cá nhân đến các nước phương Tây trong khi thu xếp cho các thành viên trong gia đình mình nhập cư vào các nước phương Tây, khi có nhu cầu. Điều này chỉ ra rằng tương lai của “mô hình Trung Quốc” thực sự rất mong manh.

Xét lại Marx

Vào đầu năm 1989, Viện Friedrich Ebert, một tổ chức phi chính phủ (NGO) của Đức, đã bố trí cho một số học giả đến thăm Ngôi nhà Karl Marx ở [thành phố] Trier. Có ai đó đã viết bằng tiếng Trung Quốc [dòng chữ]: “Ông Mác, ông đã thực sự làm hại chúng tôi rồi”.

Bây giờ, có vẻ như tuyên bố này chỉ đúng có một nửa bởi vì chủ nghĩa Mác cũng đã bị tổn hại bởi mô hình Trung Quốc. Nếu như Mác có thể nhận xét về chủ nghĩa tư bản cộng sản hiện nay, ông có thể vừa bị làm cho phát cáu vừa hài lòng cùng một lúc. Bị phát cáu bởi vì những người cộng sản đã kết hôn với kẻ thù của mình để tồn tại; và hài lòng rằng một vài người cộng sản vẫn còn đó, bất kể là họ đã sử dụng những loại học thuyết chống lại chủ nghĩa Mác. Vì vậy, Mác có thể cảm thấy rằng ông đã không hoàn toàn trở nên không thích hợp.

Nhưng Mác sẽ vẫn bị làm cho bối rối bởi một mâu thuẫn rất lớn. Theo khuôn khổ lý thuyết của ông “nền tảng kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng” và “lực lượng sản xuất tiên tiến chắc chắn thay đổi một kiến trúc thượng tầng lạc hậu”. Tuy nhiên, mô hình Trung Quốc đã buộc Mác phải phá đổ hoàn toàn khái niệm cốt lõi của mình, và do đó phá đổ toàn bộ hệ tư tưởng Mác-xít, bởi vì dưới hệ thống tư bản cộng sản hiện nay, kiến trúc thượng tầng của “chuyên chính vô sản”, trên thực tế, dựa vào nền tảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản.

Vì vậy, vẫn còn câu hỏi lớn về số phận của kiến trúc thượng tầng còn sót lại của nền tảng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũ sẽ là cái gì. Phải chăng nó sẽ hoàn toàn bị lịch sử quên lãng? hay nó thực sự chứa đựng một bản chất “tiên tiến”, chắc chắn sẽ sản sinh ra một cuộc cách mạng cộng sản mới để tiêu diệt chủ nghĩa tư bản cộng sản?

Cũng có khả năng, để học hỏi từ mô hình Trung Quốc, Mác có thể cần phải cập nhật lý thuyết của mình từ “nền tảng kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc” sang “thượng tầng kiến trúc quyết định nền tảng kinh tế.” Điều này sẽ không chỉ là một bài học khó khăn mà Mác phải đương đầu, mà còn gây ra một cuộc khủng hoảng về ý thức hệ không thể tránh khỏi đối với ĐCSTQ.

ĐCSTQ vẫn tôn kính Mác vì ông đã cung cấp tính hợp pháp về tư tưởng cho giai cấp tư sản đỏ đặc quyền, cũng như cho sự tiếp tục và kéo dài thêm mô hình “chuyên chính vô sản”. Nghịch lý là ở chỗ, mô hình Trung Quốc bản thân nó lại chống lại chủ nghĩa Mác.

Bí quyết cho sự sống sót của ĐCSTQ là phải giữ cho được ngọn cờ của chủ nghĩa Mác trong khi xây dựng và củng cố hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, một hệ thống trái với chủ nghĩa Mác. Do đó, mô hình Trung Quốc là trái ngược với cả chủ nghĩa Mác và nền dân chủ.

Tiến sĩ Trình Hiểu Nông (Cheng Xiaonong) là một học giả về chính trị và kinh tế của Trung Quốc tại New Jersey. Ông tốt nghiệp Đại học Nhân Dân – nơi ông lấy được bằng thạc sĩ kinh tế học, và Đại học Princeton – nơi ông lấy bằng tiến sĩ ngành xã hội học. Ở Trung Quốc, ông Trình là một nhà nghiên cứu chính sách và là trợ lý của cựu Lãnh đạo Đảng Triệu Tử Dương, khi ông Triệu là thủ tướng. Ông Trình từng là học giả thỉnh giảng tại Đại học Gottingen và Princeton, và ông từng là tổng biên tập của tạp chí nghiên cứu Trung Quốc hiện đại. Các bài bình luận và chuyên mục của ông thường xuyên xuất hiện trên truyền thông tiếng Hoa hải ngoại.


Wednesday, July 19, 2017

TRUNG QUỐC: “CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI HOÀN HẢO”?


Lễ khai mạc Đại hội lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Kinh vào ngày 12/10/1992. (Ảnh: AFP PHOTO/MIKE FIALA)

Đọc sách: Đây là một cuốn sách rất cần thiết để hiểu được chế độ chính trị ở Trung Quốc ngày nay. Là giáo sư tại Đại học Oxford và chuyên gia phân tích các Nhà nước, Stein Ringen vừa công bố cuốn The Perfect Dictatorship [Chế độ độc tài hoàn hảo] Nhà xuất bản HKU Press.

- Người đối thoại 1: “Trung Quốc là một chế độ độc tài.”
- Người đối thoại 2: “500 triệu người đã thoát khỏi cảnh nghèo đói.”
... Im lặng. (Stein Ringen, The Perfect Dictatorship [Chế độ độc tài hoàn hảo], tr. 135)
Stein Ringen (1945-)

Để thoát khỏi cuộc đối thoại này, khá phổ biến và dường như đi vào bế tắc, thì cuốn sách nhỏ của Stein Ringen là cần thiết. Thật vậy, cuốn sách này gợi ý cho chúng ta hiểu được làm thế nào một chế độ được xây dựng trên cơ sở của “rất nhiều điều đáng ghét” (tr. 135) lại trụ được lâu dài bằng cách áp đặt lên người dân của mình một hình thức thỏa hiệp cưởng bức mà Xu Ben gọi một cách khá thích đáng là một ”sự lựa chọn mà không lựa chọn” và rõ ràng đây là một thắng lợi thầm lặng của chế độ toàn trị (tr. 143)[1]. Chúng ta thực sự khó tưởng tượng được về mặt học thuật rằng một đất nước trên đà phát triển kinh tế – như người ta nói – theo chủ nghĩa tư bản lại có thể tiếp tục đường lối Lêninít về mặt chính trị (tr. 165).

Cuốn sách nhỏ này đáng để chúng ta quan tâm vì ba lý do. Đầu tiên, nó cáo buộc ở từng trang một cái nhìn dễ dãi rằng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) chỉ là một chế độ thành công về mặt kinh tế và hiệu quả ở những gì nó cung cấp. Tác giả cho chúng ta biết rằng như vậy là không coi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một cách nghiêm túc. Kế tiếp, vì không có sự gắn bó tình cảm với chủ đề nghiên cứu của mình, Ringen không mấy cảm xúc trước sự hào nhoáng thường mù quáng của “Nhà nước văn minh” Trung Quốc và 5000 năm lịch sử của đất nước này. Lịch sử chỉ được đề cập rất ngắn gọn trong sự chứng minh của ông. Cuối cùng, cuốn sách gắn với một viễn cảnh, mà từ nhà sử học Arif Dirlik đến nhà xã hội học Sun Liping, qua đến nhà kinh tế học người Hồng Kông Ho-fong Hung, xem xét một cách nghiêm túc những vấn đề chính trị được dấy lên bởi sự tăng trưởng kinh tế thực và sự ham muốn quyền lực không kém phần có thực của các nhà lãnh đạo, khi xem Nhà nước Trung quốc như là một Nhà nước trưởng thành[2].

Từ đó, họ nắm bắt ngay diễn ngôn của Đảng, đưa vào lại sự phức tạp khi né tránh những cạm bẫy đơn giản hóa của “tính khác biệt Trung Quốc” và/hoặc “văn hóa chính trị”, hai diễn ngôn đang thịnh hành – tuy có lợi ích nhất định – nhưng lại có nhiều khó khăn để nói về thực tế hiện tại một cách chính xác.
Những gì mà cuốn sách của Stein Ringen, giáo sư Đại học Oxford và chuyên gia phân tích các Nhà nước (Mỹ, Anh, Scandinavia, Châu Âu và Hàn Quốc) mang đến cho cuộc tranh luận về bản chất của Nhà nước Trung Quốc đương đại, chính là việc tập hợp những viễn cảnh đã được biết đến, nhưng cho tới nay còn phân tán, thành một kiến tạo hợp lý và không khoan nhượng trong một tiểu luận diễn giải cô đọng về mặt học thuật không quá hai trăm trang.

Vấn đề hoàn toàn không phải là đặt chế độ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đương đại trong bối cảnh lịch sử hoặc tìm kiếm những nguyên nhân của tình hình hiện nay, mà là cung cấp một bản đồ chuyên gia về chế độ chính trị của Trung Quốc vào một thời điểm “T”.[3]
Một số độc giả có thể bị sốc bởi tính chất triệt để của một số ngôn từ khi nhìn Trung Quốc dưới một thứ ánh sáng lạnh lùng. Nhưng tiêu đề của cuốn sách chẳng đã nói lên nhiều điều về khía cạnh khiêu khích của tiểu luận sao?
Thật vậy, lợi thế đầu tiên của cuốn sách là cho thấy rất rõ quan điểm của tác giả khi tức khắc khẳng định ngay từ trang đầu tiên trong lời nói đầu: “Chúng ta phải rõ ràng và thẳng thắn về mặt ngôn ngữ và [nói rằng] sự phân tích về Trung Quốc phải dựa trên một nhận thức không che giấu là chúng ta đối mặt với một Nhà nước toàn trị” (tr. viii). Tinh thần của cuốn sách có thể là kì lạ, do nó không tuân thủ những phân loại thông thường của nghiên cứu hàn lâm và do sự đánh giá chuyên môn được phát triển [trong cuốn sách] tạo ra nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Liệu có phải đó là vấn đề khoa học chính trị? Vấn đề kinh tế chính trị? Vấn đề kinh tế-xã hội?
Mục đích của cuốn sách, Stein Ringen cho biết, là một nỗ lực phân tích Nhà nước Trung Quốc được thực hiện bên ngoài lâu đài của các công trình nghiên cứu về Trung Quốc. Ringen tin rằng khoảng cách của việc quan sát tách biệt là một lợi thế, khi nhắc lại sự mù quáng của những năm dưới thời Mao Trạch Đông và khi chỉ ra một số tác phẩm được xuất bản gần đây, mang tính ngây ngô hoặc lệ thuộc đến xấu hổ (tr. 39).
Đối với ông [Stein Ringen], khoảng cách phê phán của sự quan sát hàn lâm đã bị xáo trộn, trong trường hợp của Trung Quốc, bởi hai cơ chế. Đầu tiên, đó là một sự mê hoặc nhất định nào đó có xu hướng nhìn thấy lợi ích, sự ấn tượng và đôi khi điều tốt trong một Nhà nước đã bám rễ sâu trong một lịch sử hàng nghìn năm. Sau đó, tất cả những ai bước vào “trò chơi của Trung Quốc” đều biết rằng ở đây [Trung Quốc] có những quy tắc và rằng sự không hài lòng chính thức có thể dẫn đến một vài điều thất vọng như: từ chối cấp visa thông hành, gián đoạn hợp tác... Hiện tượng tự kiểm duyệt, ít nhiều có ý thức, là điều có thực (tr. 40-41).
Ringen phủ nhận mọi tham vọng trở thành nhà Trung Quốc học trong tương lai và tự cho mình là một nhà phân tích xã hội và là một nhà phương pháp học theo chủ nghĩa cá nhân, người cho rằng định nghĩa một Nhà nước chỉ nằm trong cách thể hiện của nó đối với dân chúng, đến tận những nấc thang xã hội thấp nhất (tr. 41). Và mối liên kết giữa khoa học chính trị thuần túy (phân tích cái hệ thống) và khoa học chính trị xã hội (quan hệ với người dân), theo tác giả, được cảm nhận trong sự cân bằng giữa những gì mà Nhà nước chiếm lấy (take) và những gì mà Nhà nước phân phối (deliver)[4].
Vì vậy, cuốn sách có thể được xem như là sự phân tích kết quả của một phép toán đơn giản: còn lại điều gì khi chúng ta cộng những gì mà Nhà nước chiếm lấy và những gì mà Nhà nước cung cấp [délivrer]. Sự lạnh lùng mang tính đại số này ngăn cuốn sách rơi vào sự bôi bác đơn giản (China bashing hay đả kích Trung Quốc) có mặt trong một số phân tích. Thực vậy, Ringen không có ân oán gì [với Trung Quốc], cũng chẳng có điều gì cần phải thanh minh về chủ đề của mình; ông không phải là một người li khai, một điều có lẽ làm cho một số kết luận của ông mang tính lạnh lùng hơn.

Kể từ những phân tích kinh điển của Hannah Arendt hoặc của Raymond Aron, và gần đây hơn của Juan Linz, rõ ràng mọi người đều biết rằng các chế độ Đảng-Nhà nước là những chế độ độc tài.[5] Tuy nhiên, trong trường hợp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC), nếu thuật ngữ “chuyên quyền” là quá dễ dãi, thì các thuật ngữ “chế độ độc tài” và “chủ nghĩa toàn trị” là không chắc chắn và có vẻ quá sơ đẳng và đơn giản để xác định bản chất hiện tại của chế độ. Các thuật ngữ đó cần phải được xem xét lại dưới ánh sáng của thực tế đương đại (tr. 2).

“Chế độ kiểm soát trị”

Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một chế độ độc tài tinh vi, trong đó công dân được hưởng nhiều quyền tự do, tuy nhiên đến một điểm nào đó mà thôi. Đến điểm này, Đảng sẽ can thiệp với tất cả bạo lực cần thiết, như đã cho thấy vào năm 1989 chống lại phong trào dân chủ, năm 1999 chống lại giáo phái Pháp Luân Công, và gần đây hơn chống lại nhiều thành phần khác nhau của xã hội dân sự.
Mọi người đều biết Đảng hiện diện ở các sự kiện đó, và nếu Đảng không nói mỗi người phải làm gì thì Đảng vẫn kiểm soát cặn kẽ những gì không được làm, đọc hoặc nghe. Hẳn là hệ thống kiểm soát một cách gián tiếp và tinh vi này có lợi về lâu về dài hơn là việc sử dụng bạo lực (tr. 137). Tuy nhiên, Ringen nhắc lại rằng mối đe dọa trừng phạt, sách nhiễu, giam giữ, mất việc làm hoặc nhà ở, hăm dọa gia đình hoặc người thân, bạo lực và cuối cùng là cái chết, vẫn luôn hiện diện (tr. 137).
Ngày nay, người ta hoàn toàn có thể sống và sinh hoạt tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một khi hiểu được, tích hợp và chấp nhận các quy tắc – mà ranh giới của chúng mang tính mơ hồ một cách cố ý.
Vả lại, các trang dành cho luật pháp cũng mang tính khá rõ ràng và nhắc nhở một thực tế thường bị lãng quên: ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, lý thuyết pháp lý thống trị là luật pháp phải phục vụ chủ nghĩa xã hội, có nghĩa là phải phục vụ Đảng, tổ chức làm ra các quy tắc – mà Đảng gọi là “luật” – và tự cho phép bác bỏ các quyết định tư pháp được cho là “sai”. Nói cách khác, luật pháp chỉ tồn tại khi mà nó không làm phiền đến người đã viết ra nó! Thế nào chính xác là một luật không bao giờ được làm rõ (tr. 79) và những cuộc thảo luận về tính nước đôi của khái niệm fazhi – “thượng tôn pháp luật” hay “cai trị bằng pháp luật” – đã không ngừng nuôi dưỡng những cuộc tranh luận giữa các chuyên gia pháp lý[6].

Như đã biết, việc thiếu vắng Nhà nước pháp quyền ở Trung Quốc là một trở ngại chính cho sự phát triển nền dân chủ.[7] Dù gì đi nữa, mối quan hệ giữa người Trung Quốc với luật pháp, và với hệ thống tư pháp nói chung, không thoát khỏi chứng tâm thần phân liệt đã được biết đến và gắn với chính bản chất của hệ thống – như Stephanie Balme đã nhắc lại, trong cuốn “Communisme et schizophrénie – L’individu face au droit dans la société chinoise post-révolutionnaire [Chủ nghĩa Cộng sản và chứng tâm thần phân liệt – Con người đối mặt với pháp luật trong xã hội thời hậu cách mạng Trung Quốc]” (Raisons politiques, số 3, 2001).
Thế mà, bản chất này lại mang tính toàn trị. Nó ăn khá sâu vào đời sống hàng ngày đến nỗi làm tiêu tan không gian chính trị. Chúng ta đều biết đó, “trong một thế giới phi chính trị, [...] không có chỗ cho những tiếng nói bất đồng hoặc những hành vi lệch lạc. Không có vị trí khả thi nào khác giữa sự hội nhập vào hệ thống và sự loại trừ khỏi hệ thống.”[8] Ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, những gì còn lại của đời sống chính trị bị buộc phải hoạt động lén lút, riêng tư, bí mật, cô lập (tr. 139). Nghiên cứu chi tiết các cơ chế đánh thuế đối với các cá nhân và các doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động xã hội, khu vực công, bảo hiểm và trợ cấp xã hội cung cấp một bản đồ có suy tính về các khả năng của chế độ, một chế độ tuy có khả năng cần thiết để phục vụ quyết tâm của Nhà nước nhưng vẫn có tính “hiệu lực” (effective) hơn là “hiệu quả” (efficient) (tr. 115).
Sau một phân tích tỉ mỉ về Nhà nước, nền kinh tế và ma trận quyền lực (Đảng, quân đội, các quyền lực tư pháp, hành pháp và lập pháp, công an, bộ máy quản lý), tác giả đi đến kết luận có phần mỉa mai rằng nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã phát minh ra một kiểu chế độ chính trị, thì quả thực họ đã phát minh lại chế độ độc tài. Ringen đặt tên cho chế độ mới này là “chế độ kiểm soát trị” (tr. 138).

Để đi đến kết luận này, ông đã đặt những cột mốc phương pháp luận một cách độc đáo khi sử dụng các nhà lãnh đạo Trung Quốc, những gì họ nói, những gì họ làm, những gì họ tạo ra và cuối cùng họ là ai trong chuỗi lập luận của mình. Điểm duy nhất nhắc đến lịch sử trong cuốn sách này gợi lại “ba hồn ma” đã ám ảnh các nhà lãnh đạo: thế kỷ của sự sỉ nhục (1842-1949), sự thái quá của chủ nghĩa Mao, và sự sụp đổ của Liên Xô (tr. 2-3). Từ ba điểm xác định này nảy sinh ưu tiên hàng đầu của chế độ Đảng-Nhà nước là phải đảm bảo quá trình tiếp diễn của chính chế độ. Kể từ đó, Nhà nước được cải cách sau năm 1978 hoạt động theo một nghị trình kép. Một mặt, phải đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế để tưởng thưởng cho người dân một cách hữu hình, sờ mó được; mặt khác, để đảm bảo sự sống còn của chính chế độ thì phải xây dựng lại “bộ máy” kiểm soát xã hội (tr. 6.) xung quanh hai mục tiêu ưu tiên: sự tồn tại bền vững của chế độ và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Theo viễn cảnh này, công cuộc “cải cách” không phải là một sự tái tạo lại các cơ chế hiện đại hóa của phương Tây, mà là một sự củng cố và hoàn thiện chế độ (tr. 166).

“Mô hình” Trung Quốc nào?

Chỉ bằng việc khéo léo sử dụng các số liệu chính thức (mà tính không chắc chắn nặng nề được ông nhấn mạnh), Ringen nhanh chóng biến đổi việc phân tích hệ thống chính trị của Trung Quốc và những tác động xã hội của nó thành một diễn giải mang tính phê phán “mô hình”, bằng cách nhắc lại những ví dụ khác về hiện đại hóa khi mà quá trình phát triển xã hội và chính trị đã đồng hành với sự phát triển kinh tế, khi mà quá trình định tính đã đồng hành với quá trình định lượng.
Tại Đài Loan và Hàn Quốc, các chính phủ đã đạt được sự ủng hộ của người dân khi đồng hành với sự tăng trưởng kinh tế. Họ tự trang bị tính chính danh gắn với các khoản hỗ trợ đầu tư vào ngành giáo dục và bảo hiểm xã hội (tr. 35). Đó không phải là mục đích chính của mọi công cuộc hiện đại hóa à? Như vậy, Ringen chất vấn về động cơ và mục đích của một dự án cải cách, mà tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giờ đây dường như đã chỉ còn là một cuộc tìm kiếm điên cuồng sự tăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào ý chí quyền lực của một cường quốc. Tuy nhiên, trong cuộc tìm kiếm sự “vĩ đại” (greatness) này, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ gây được ấn tượng bởi “kích cỡ to lớn” (bigness) của họ (tr. 35). Một “cuộc đua về tăng trưởng kinh tế” (GDP-growthism) xác thực ý tưởng cho rằng các nhà lãnh đạo nắm rõ tăng trưởng là gì, nhưng họ không còn biết tăng trưởng được dùng vào việc gì (tr. 48). Thế mà, theo lời cảnh báo của Ringen, sức mạnh mà không có mục tiêu là một “chòm sao đáng ngại” (tr. 49). Ngày nào mà nền kinh tế không còn phát triển ở một mức độ thích hợp về mặt chính trị, thì sẽ không còn gì nhiều để đáp ứng những mong đợi mà chính chế độ đã tạo ra.
Trong mọi trường hợp, việc đạt được tính chính danh thông qua sự tăng trưởng kinh tế đều có cái giá của nó: một tình trạng ô nhiễm khổng lồ, một vấn nạn tham nhũng tràn lan và một sự gia tăng các bất bình đẳng. Về vấn đề này, chương viết về thực trạng nghèo đói có sức thuyết phục. Và việc xem xét trong bối cảnh các công cụ thống kê cho phép tác giả khẳng định rằng, nếu có nhiều người thoát khỏi tình trạng nghèo đói, thì vẫn còn rất, rất nhiều người khác trong tình trạng khốn cùng (tr. 120). Những người thoát khỏi tình trạng nghèo đói, theo các số liệu chính thức đã thực sự không thay đổi nhiều, và Trung Quốc vẫn là một nước mà tình trạng nghèo đói mang tính “đại trà và áp bức” (tr. 148). Điều mà Ringen bổ sung một cách thích đáng, là đối với sự nghèo đói và tăng trưởng – mà ông cho là đã được đánh giá quá cao – là chế độ đã tự nhận lấy công trạng nhiều hơn điều thực sự nó xứng đáng. Việc xóa đói giảm nghèo hiệu quả là một kết quả của nền kinh tế, mà Nhà nước chỉ việc đồng hành theo, hơn là của một chính sách tái phân phối xã hội có thực và có kế hoạch (tr. 148). Tác giả chứng minh rằng, về mặt năng lực quản lý, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước phát triển, nhưng về mặt phân phối lại, thì đó vẫn là một nước còn kém phát triển. Diễn ngôn bảo vệ nguyên trạng của Trung Quốc lấy cớ kém phát triển từ nay đã lỗi thời và mang tính chiến lược. Về mặt những gì lấy được, Nhà nước Trung Quốc thậm chí còn phát triển ở mức cao. Về mặt những gì cho được, nó là một Nhà nước kém phát triển (tr. 164).

Đối với tác giả, Nhà nước Trung Quốc “làm ít hơn cho người dân những gì mà họ có khả năng làm được và có thể cho phép làm được bởi vì họ có những mục tiêu và ưu tiên khác hơn là làm vì lợi ích của người dân thường” (tr. 166). Như vậy, cuốn sách Ringen là một chứng minh tỉ mỉ sự phi lý của “huyền thoại tự do”, mà trong những năm 1970 đã gắn nhu cầu phát triển của Trung Quốc với sự tất yếu của sự tự do hóa về mặt chính trị của đất nước. Tầng lớp trung lưu phải đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn, họ đã trở thành một trụ cột của chế độ. Internet phải trở thành một tác lực tự do hóa xã hội, nó đã trở thành một công cụ kiểm soát mới trong tay của nhà chức trách.[9] Một huyền thoại, mà ông nói, đã không thể sống sót sau bi kịch của năm 1989 và qua việc Đảng xác định lại hệ quả logic của sự thật.[10] Điều quan trọng cần nhấn mạnh là tầm quan trọng mà tác giả giành cho (việc không có) ký ức về ngày 04 tháng 6 năm 1989 của chính quyền Trung Quốc cũng như của một số tài liệu nào đó quy giản bi kịch thành một “sự cố” đơn thuần (chú thích số 6 tr. 4). Đối với ông, điều đã chết vào tối hôm đó chính là niềm hy vọng được Đảng dấy lên vào cuối thời kỳ cách mạng và là điểm mốc quan trọng của những năm 1980. Vì vậy, sự thật duy nhất có sẵn trở thành sự thật của sự thích nghi (tr. 4).
Các chương nói về nạn tham nhũng và năng lực kiểm soát của Nhà nước là bổ ích và cung cấp một cái nhìn khá buồn về cảnh quan đương đại nhất. Ringen chia hiện tượng tham nhũng thành ba cấp độ. Cấp độ thấp nhất, lan tỏa nhiều nhất trong sinh hoạt hàng ngày và có mặt ở khắp mọi nơi thuộc về các lĩnh vực: dịch vụ, cấp giấy phép, tem, thỏa thuận, cấp giấy chứng nhận, thương mại, cấp phép, trường học, bệnh viện... Danh sách còn dài vô tận và góp phần chủ yếu vào sự bất mãn của công chúng. Cấp độ thứ hai, trong bộ máy quan quyền, liên quan đến việc mua quan bán tước hoặc thăng chức cho người trả giá cao nhất. Cuối cùng, ở cấp độ cao nhất của Nhà nước, đây không còn là tham nhũng, Ringen cho biết, đó là tội phạm có tổ chức (tr. 24-25). Nếu phân tích này không phải là điều mới, thì điều đáng lưu ý là tác giả đã ghi lại trong khuôn khổ của những người tìm cách chứng minh mức độ tham nhũng đáng kinh ngạc ở các cấp cao nhất của Nhà nước[11].
Do đó, đối với ông, chiến dịch được chính phủ hiện tại tiến hành chống nạn tham nhũng, mà mục tiêu thực sự thường không rõ ràng, được thúc đẩy bởi một nghị trình kép. Một mặt, phải thanh trừng phe đối lập trong nội bộ Đảng, và mặt khác là diệt trừ sự đua tranh của một nhóm đầu sỏ ăn bám để lập lại sự lãnh đạo của Đảng một cách vững chắc về mặt chính trị, kinh tế và cuối cùng là về mặt xã hội (tr. 28). Ringen thậm chí mở rộng sự phân tích chủ đề này khi báo hiệu sự đảo ngược triệt để những ưu tiên làm bại hoại có hệ thống toàn bộ bộ máy quản lý quan liêu. Các quan chức không phục vụ công chúng. Họ chỉ làm theo lời cấp trên của họ mà thôi. Họ được yêu cầu trung thành với cấp trên trong hệ thống cấp bậc của họ, những người mà họ mang nợ đối với vị trí việc làm của họ và những người quyết định sự thăng tiến của họ, trong một trò chơi thường trực về nghĩa vụ và có qua có lại làm đảo ngược ngay cả ý tưởng của một cơ quan dịch vụ công để biến nó thành một bộ máy phục vụ cho Đảng. Một lần nữa, tác giả bài xuất lập luận duy lịch sử vốn nhìn thấy, trong hiện tượng tham nhũng, một sự tiếp nối của tập quán “văn hóa” về việc cho và nhận “quà biếu” có thể dễ dàng biến thành một sự cưỡng đoạt thuần túy và đơn giản.[12]

Về mặt kiểm soát, tác giả nhấn mạnh đến việc (Đảng) lựa chọn mọi tổ chức của xã hội dân sự. Đảng, có ý thức lịch sử, biết rõ chính bản thân mình cũng xuất phát từ sự tổ chức đạt được thắng lợi trong cuộc phản kháng của nhiều nhóm xã hội khác nhau. Việc chuyển hướng và thao túng các phong trào có tiềm năng phê phán tham gia vào sự “ổn định động” tuyệt vời của chế độ, một chế độ lo ngại trên hết, hơn cả những cá nhân hoặc nhóm nhỏ, mọi hoạt động xã hội tích cực có khả năng tự tổ chức và tạo ra các mạng lưới (tr. 140)[13]. Không phải việc tổ chức đấu tranh ủng hộ hay chống lại một mục tiêu nhất định nào đó, mà chính ngay việc tự tổ chức mới là vấn đề (tr. 141). "Trong một hệ thống toàn trị, Michel Bonnin nhắc lại cách đây một vài năm, theo định nghĩa mọi nỗ lực tạo ra các mối liên kết theo hàng ngang là một điều xấu, bởi vì các nỗ lực đó sẽ phá vỡ sự hoạt động theo hàng dọc của tổ chức.”[14]
Không gian mà Nhà nước để lại cho người dân, và tạo ra một ấn tượng của tình trạng “bình thường” trong cuộc sống hàng ngày, chỉ bao gồm những “khu vực bàng quan” được Nhà nước nhượng quyền, thường để che đậy một cách tốt nhất sự rút lui từng bước của Nhà nước khỏi lĩnh vực xã hội. Việc Nhà nước rút khỏi lĩnh vực xã hội không bao giờ là việc chế độ Đảng-Nhà nước rút khỏi quyền lực (tr. 137). Quan hệ thống trị giữa quyền lực và xã hội không thay đổi về mặt cơ bản, ngay cả khi đã được nới lỏng, và tham vọng toàn trị có vẻ chưa bao giờ được đặt thành vấn đề.[15] Đây có lẽ chính là điều mà “chế độ kiểm soát trị” là chế độ độc tài hoàn hảo nhất. Nó không phụ thuộc vào sự có mặt khắp nơi của khủng bố. Chế độ thậm chí có thể tự cho phép chỉ sử dụng bạo lực thuần túy với một mức độ dè sẻn nào đó mà thôi. Tuy nhiên, sự đe dọa khủng bố có mặt ở khắp mọi nơi (tr. 141). Nhưng kiểm soát không chưa đủ: Đảng vẫn là cơ quan quyền lực cao nhất liên quan đến vấn đề lịch sử và chân lý, và vì vậy có thể áp đặt việc kể lại vận mệnh của đất nước một cách hùng hồn và mạnh mẽ. Chiến lược của chế độ, theo cách bổ sung thêm, cũng dựa vào việc phân phối phần thưởng và dưới một hình thức “tự nguyện tuân thủ thụ động” (willing compliance) được áp đặt (tr. 136).
Các chiến lược thỏa hiệp
Thật vậy, người Trung Quốc, giống như tất cả nhân loại khi đương đầu với một Nhà nước mạnh, nặng nề, len lỏi và có mặt khắp nơi, không có lựa chọn nào khác ngoài việc thỏa hiệp. Các chiến lược để ứng phó và thích nghi rất đa dạng: “Lòng dũng cảm, chất phác, tương trợ, che chở, chống đối và phản đối, tổ chức, lật đổ, che giấu, sống còn [...] cũng như sự chấp nhận, vâng lời, hợp tác trong áp bức, chủ nghĩa cơ hội và hèn nhát.” Và Ringen bổ sung thêm: “Một bức tranh phong phú về thân phận con người, vì điều tốt hơn hoặc tồi tệ hơn” (tr. 40). Chúng ta thấy ở đây biện minh văn hóa như sự bào chữa duy lịch sử, vốn tạo nên bản chất của một đặc trưng giả định là của Trung Quốc, bị cuốn đi như thế nào, có thể nói như vậy, với một sự thanh lịch nào đó. Tuy vậy, vẫn có một lựa chọn thay thế (kín đáo) mà Ringen gọi là “tinh thần anh hùng và không phải không đáng kể” (tr. 99).
Tuy nhiên, tác giả thừa nhận rằng chế độ cung cấp khá tốt một hình thức ổn định có thực, ngay cả khi nó dựa nhiều trên cơ sở kiểm soát hơn là trên tính chính danh của Đảng để cai trị. Tuy vậy, tác giả vẫn chất vấn về thực tế của tính hơn hẳn của sự ổn định này. Sự cởi mở về mặt chính trị, ông nói, có thể giải phóng nhiều hơn nữa năng lượng và sự sáng tạo. Nó có thể không quản lý được, nhưng viện đến sự thất bại tiềm tàng của nó để biện minh cho hiện tại “là điều không đáng tin” (tr. 147). Có một điều đúng là mỗi nỗ lực mở cửa (vào những 1956, 1979, 1989, tác giả cũng nêu sự kiện của Hồng Kông vào năm 2014) đều dẫn đến những yêu sách về dân chủ nhiều hơn. Đảng biết không có được sự chấp nhận thực sự của xã hội. Nếu Đảng đã cho phép người Trung Quốc tham gia vào thế giới của chủ nghĩa tiêu dùng hiện đại, thì Đảng vẫn ngăn cản họ đạt được quyền tự chủ hiện đại. Xã hội Trung Quốc đương đại đã trở thành một trong những xã hội bất bình đẳng nhất trên thế giới, và một vài báo cáo về chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của người dân cuối cùng cũng mô tả thực tế đáng buồn của Trung Quốc ngày nay (tr. 149-150). Vì vậy, Ringen khẳng định “nghịch lý của sự tiến bộ” này rằng: không có sự tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống.[16]
Để kết luận tổng quan tất nhiên chưa đầy đủ của cuốn sách sáng tỏ này, Ringen dừng lại với “giấc mơ của Trung Quốc” (Zhongguo meng) của ban lãnh đạo hiện tại tại Bắc Kinh[17]. Ông dẫn lại một bài báo chính thức ra ngày 05 tháng 4 năm 2013, gắn một cách dứt khoát sự vĩ đại của quốc gia với hạnh phúc cá nhân của mỗi người dân Trung Quốc.[18] Ngoài một sự tôn vinh mang tính dân tộc đã trở thành thói quen, tu từ học về “giấc mơ” của các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như có một mục đích duy nhất là thống nhất quyền tự chủ cá nhân vào quyền lực quốc gia trong việc kích hoạt lại một ý tưởng khủng khiếp về “Một dân tộc” được Claude Lefort phát triển, người xác định chính xác chế độ toàn trị như là sự đồng chất của Nhà nước và xã hội.
Đặc điểm then chốt của các chế độ toàn trị, huyễn tưởng về sự đoàn kết giữa nhân dân và giới lãnh đạo họ (bất luận là một người hoặc một tập thể), một xã hội đồng nhất, thuần khiết và độc nhất, dựa trên việc phủ nhận sự phân chia giữa Nhà nước và xã hội, và sự chia rẽ nội bộ trong xã hội. Trong định nghĩa của Lefort, Đảng là tác nhân ưu tiên của sự đồng nhất hóa ấy, một sự đồng nhất muốn làm cho chúng ta tin vào một xã hội có khả năng tự tổ chức về mặt hữu cơ, từ bên trong của chính xã hội đó.[19] Về cơ bản, Ringen nhắc lại, ý tưởng về sự thống nhất giữa quốc gia và con người là một ý tưởng phát xít, đó chính là ý tưởng phát xít, ông nhấn mạnh (chữ in nghiêng trong nguyên bản, tr. 176).
Cuốn sách không được đề tặng cho Trung Quốc, nó được đề tặng cho nhân dân Trung Quốc, quyền tự do, hạnh phúc và sự thịnh vượng của họ.

Giới thiệu tác giả

David Bartel, làm việc tại Trung tâm nghiên cứu về Trung Quốc đương đại của Pháp (CEFC) tại Hồng Kông từ 8 năm nay, hiện đang nghiên cứu về lịch sử những ý tưởng chính trị hiện đại của Trung Quốc. Trước đây, ông đã có hai năm làm việc tại Thành Đô, rồi hai năm tại Đài Bắc, trước khi quan tâm đến các mối quan hệ giữa lịch sử, chính trị và ngôn ngữ. Đồng thời, ông cũng đã đi nhiều nơi và khám phá sự đa dạng của các bản sắc đương đại Trung Quốc. Ông đang hoàn thành luận án tiến sĩ với tựa đề Lumières chinoises [Ánh sáng Trung Quốc] cho EHESS dưới sự hướng dẫn của Michel Bonnin. Việc bổ sung các diễn ngôn hậu hiện đại bởi tu từ học dân tộc và sự xóa bỏ văn hóa nhân danh văn hóa là trọng tâm các nghiên cứu của ông.
(Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch)
Nguồn: Chine: la “dictature parfaite”?, Asialist, 4.01.2017

---------------------------------
[1] Xu Ben, “Postmodern-Postcolonial Criticism and Pro-Democracy Enlightenment [Sự phê phán hậu hiện đại-hậu thuộc địa và sự khai sáng thân dân chủ]”, Modern China [Trung Quốc hiện đại], Vol. 27, số 1, tháng 1/2001, tr. 122.↩

[2] Arif Dirlik đề nghị một phân tích về xã hội Trung Quốc rất gần với phân tích của Ringen liên quan đến số lượng những người chia sẻ trực tiếp lợi ích của họ với Đảng. Cuộc phỏng vấn, trong đó ông phát triển ý tưởng này – “Chinese Communist Party – World’s Biggest Corporation [Đảng Cộng sản Trung Quốc – Tập đoàn lớn nhất thế giới]” cho tờ Macau Business Daily [Nhật báo kinh doanh Macau] (ngày 25/6/2013) – đã biến mất khỏi trang web. Sun Liping, với một giai điệu nghiêm trọng tương tự như Ringen, đã phát triển ý tưởng buồn của một khả năng “suy đồi xã hội”; một nhận xét mà Ho-fung Hung đã bổ sung thêm trong một bài viết được đăng trên một tờ báo của Hồng Kông vào ngày 29/3/2015, về một khả năng “Triều tiên hóa” (beichaohua) nền Cộng hòa Nhân dân.↩

[3] Về một cái nhìn mang tính lịch sử hơn về chế độ, xem Arif Dirlik, “Socialism in China – A Historical Perspective [Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc – Một viễn cảnh lịch sử]”, trong Kam Louie (chủ biên), Cambridge Companion to Modern Chinese Culture [Cẩm nang Cambridge về văn hóa Trung Quốc hiện đại], Cambridge Mass., Cambridge University Press, tr. 155-170.↩

[4] Phải nhấn mạnh đến tầm quan trọng mà tác giả gán cho thuật ngữ “deliver [cung cấp]”, được lặp đi lặp lại nhiều lần và tính đa nghĩa của cách dịch thuật ngữ này sang tiếng Pháp: giao lại [remettre], giao nộp [livrer], cung cấp [délivrer], và còn có nghĩa là đẻ ra [accoucher], trở lại [rendre], đảm bảo [assurer], giữ lời [tenir parole] (cf. Larousse.fr).↩

[5] Hannah Arendt, Les Origines du totalitarisme [Nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị] – tiếp theo cuốn Eichman à Jérusalem [Eichman ở Jerusalem], Jean-Loup Bourget et al. dịch, Paris, Gallimard, 2002. Lần đầu xuất bản vào năm 1951; Raymond Aron, Démocratie et totalitarisme [Dân chủ và chủ nghĩa toàn trị], Paris, Gallimard, 1965; Juan Linz, Totalitarian and Authoritarian Regimes [Các chế độ toàn trị và chuyên quyền], Boulder, NXB Lynne Rienner Publishers, 2000.↩

[6] Chúng ta thấy, ví dụ, một bàn luận sáng tỏ ở Shan Gao, Fazhi: “Rule by Law” or “Rule of Law”? A Common but Serious Mistake Among Many Writers [Fazhi: “Cai trị bằng pháp luật” hay “Thượng tôn pháp luật”? Một sai lầm phổ biến nhưng nghiêm trọng trong nhiều nhà văn].↩

[7] Alan T. Wood, Asian Democracy in World History [Chế độ dân chủ châu Á trong lịch sử thế giới], London và New York, Routledge, 2004, tr. 15.↩

[8] Rosanvallon, La Société des égaux [Xã hội của những người bình đẳng], Paris, Seuil, Points Essais, 2011, tr. 170.↩

[9] Trong chuỗi mạch này, dự án “Hệ thống tín nhiệm xã hội” (“Social Credit System”) với mục đích cuối cùng muốn “đánh giá” hành vi của công dân và của các doanh nghiệp là khá đáng sợ, xem Sara Hsu, “China’s New Social Credit System [Hệ thống tín nhiệm xã hội mới của Trung Quốc]”, The Diplomat, ngày 10 tháng 5 năm 2015.↩

[10] Xem David Bartel, “25 ans après Tiananmen, la Chine reste hantée par le 4 juin [25 năm sau biến cố Thiên An Môn, Trung Quốc vẫn còn bị ám ảnh bởi ngày 4 tháng 6]”, L’OBS/Rue 89, ngày 12/6/2014.↩

[11] Xem cuộc điều tra hầu như không dám tin của Hiệp hội các Nhà báo Điều tra Quốc tế (ICIJ) vào tháng 1 năm 2014.↩

[12] mà người ta tìm thấy một mô tả sống động trong bài viết “Giữa quá khứ và hiện tại”, Lời giới thiệu của Pierre-Etienne Will cho cuốn sách của Philip A. Kuhn, Les Origines de l’État chinois [Nguồn gốc của Nhà nước Trung Quốc] (EHESS, 1999), tr. 37.↩

[13] Về việc chuyển hướng và thao túng Phong trào bảo vệ pháp luật và các tổ chức “phi chính phủ” của Trung Quốc, xem Chloé Froissart, “Les “ONG” de défense des droits des travailleurs migrants – Des organisations proto-syndicales qui contribuent à la stabilité dynamique du régime [Các “tổ chức phi chính phủ” bảo vệ quyền của người lao động nhập cư – Những tổ chức nghiệp đoàn đầu tiên đã góp phần vào sự ổn định động của chế độ]”, trong Perspectives Chinoises, 2011/2.↩

[14] Michel Bonnin, “Comment définir le régime politique chinois aujourd’hui [Làm thế nào để xác định chế độ chính trị của Trung Quốc ngày nay]”, trong Yves Michaux (chủ biên), La Chine aujourd’hui [Trung Quốc ngày nay], Paris, Odile Jacob, 2003, tr. 234.↩

[15] Michel Bonnin, “Comment définir le régime politique chinois aujourd’hui [Làm thế nào để xác định chế độ chính trị của Trung Quốc ngày nay]”, trong Yves Michaux (chủ biên), La Chine aujourd’hui [Trung Quốc ngày nay], Paris, Odile Jacob, 2003, tr. 229, 231 và 232.↩

[16] Carol Graham, Shaojie Zhou và Zhang Junyi, “Happiness and Health in China: The Paradox of Progress [Hạnh phúc và Y tế tại Trung Quốc: Nghịch lý của sự tiến bộ]”, Brookings Institution, ngày 10/6/2015.↩

[17] Dịch Zhongguo meng bằng “giấc mơ của Trung Quốc” hơn là “giấc mơ Trung Quốc” có ý nghĩa là chấp nhận ý tưởng cho rằng giấc mơ của các nhà lãnh đạo có thể không phải là giấc mơ tất cả người dân Trung Quốc. Một sự tinh tế khá tốt khi dịch ra tiếng Anh, từ “China Dream [Giấc mơ của Trung Quốc]” thành “Chinese Dream [Giấc mơ Trung Quốc]”.↩

[18] Có một bản dịch tiếng Anh của bài viết này trên trang web China Digital Time [Trung Quốc thời kỹ thuật số].↩

[19] Claude Lefort, Le Temps présent. Écrits 1945-2005 [Thời nay. Những bài viết từ 1945 đến 2005], Paris, Belin, 2007, tr. 268.↩