Monday, October 24, 2016

CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI VÀO ĐẦU THẾ KỶ XXI: Siêu Cường, Quyền Lực, Thử Thách

Khi đặt câu hỏi “Ai đang ngự trị thế giới?”, chúng ta thường chấp nhận quy ước chung “các tay chơi trong sinh hoạt thế giới là các nhà nước, nhất là các đại cường,”và tìm hiểu các quyết định của họ và các quan hệ giữa họ với nhau. Điều đó không sai. Nhưng chúng ta cần nhớ mức độ trừu tượng nầy cũng rất dễ dẫn đến các hiểu lầm quan trọng.
Nhà nước, đã hẳn, luôn có những cơ cấu đối nội phức tạp, và các lựa chọn và quyết định của giới lãnh đạo chính trị luôn bị ảnh hưởng bởi tình trạng tập trung quyền lực đối nội, và quần chúng, nói chung, luôn bị gạt qua bên lề. Đây là sự thật ngay cả đối với các xã hội dân chủ, và cố nhiên, đối với các xã hội kém dân chủ.
Chúng ta không thể có được một hiểu biết thực tế về những ai đang ngự trị thế giới cùng lúc không quan tâm đến “các chủ nhân ông của nhân loại,” như Adam Smith đã gọi họ: thời đó là các giới thương buôn và sản xuất các biến chế phẩm của Anh Quốc; hiện nay, là các tập đoàn đa quốc gia, các định chế tài chánh khổng lồ, các đế quốc thương buôn, và đồng nghiệp.
Vẫn theo Adam Smith, cũng phải khôn ngoan tìm hiểu “phương châm xấu xa” của các “chủ nhân ông của nhân loại”: “Tất cả cho chúng ta và không dành bất cứ gì cho người khác” — một chủ thuyết được biết một cách khác như chiến tranh giai cấp chua cay và bất tận, thường là một chiều, phương hại cho quần chúng quốc nội và quốc tế.
Trong trật tự toàn cầu đương thời, các định chế của giới chủ nhân ông giữ quyền hành lớn lao không những trên địa bàn quốc tế, mà ngay bên trong các nhà nước sở quan, cần thiết cho nhu cầu bảo vệ quyền lợi và hậu thuẩn kinh tế với nhiều phương tiện khác nhau.
Khi xét đến vai trò chủ nhân ông của nhân loại, chúng ta luôn quay về với các ưu tiên trong chính sách nhà nước vào cùng thời điểm, như Trans-Pacific Partnership [TPP], một trong những thỏa ước về quyền hạn giới đầu tư, với nhãn hiệu sai lầm “như các thỏa ước mậu dịch tự do,” trong các tài liệu tuyên truyền và bình luận. Đây là các thỏa ước được thương thảo bí mật, bên ngoài hàng trăm luật gia các đại công ty và giới vận động hành lang cung cấp các chi tiết thiết yếu. Mục tiêu là để được ký kết theo phương cách Stalinist, với thủ tục “nhanh chóng” được thiết kế nhằm chận đứng mọi thảo luận và chỉ cho phép lựa chọn “yes or no” [vì vậy chỉ yes]. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, các nhà thiết kế thường làm việc khá thoải mái, và quần chúng chỉ giữ vai trò bàng quan, với hậu quả như mọi người đều có thể tiên liệu.
SIÊU CƯỜNG THỨ HAI
Các chương trình tân tự do của thế hệ trước đã tập trung tài phú và uy quyền trong tay rất ít người, làm suy yếu các nền dân chủ đang hoạt động nhưng cũng đã gặp phải nhiều chống đối, rõ ràng nhất là ở châu Mỹ Latin cũng như các trung tâm quyền lực toàn cầu. Liên Hiệp Âu Châu [EU], một trong những định chế nhiều hứa hẹn trong kỷ nguyên hậu Thế Chiến II, đang khập khiểng vì hậu quả khắc nghiệt của các chính sách kiệm ước trong khủng hoảng kinh tế, bị ngay cả các kinh tế gia Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế [nếu không phải các nhà hoạt động của IMF] lên án. Dân chủ đã bị xói mòn khi quyền quyết định đã được chuyển qua giới thư lại Brussels, trong phạm vi ảnh hưởng của các ngân hàng phương Bắc.
Các đảng phái dòng chính đã nhanh chóng đánh mất các thành viên cho phe tả cũng như phe hữu. Giám Đốc quản trị của nhóm nghiên cứu có trụ sở ở Paris, EuropaNova,  đã quy sự mất mọi ảo vọng cho “tâm trạng bất lực giận dữ khi quyền lực định hình các biến cố, phần lớn đã được chuyển từ các lãnh đạo chính trị quốc gia [những vị, ít ra trên nguyên tắc, đang sinh hoạt trong môi trường chính trị dân chủ] qua thị trường, những định chế của Liên Hiệp Âu Châu và các đại công ty,” đúng theo chủ thuyết tân tự do[1].
Cùng những quá trình đang diễn tiến ở Hoa Kỳ, vì những lý do ít nhiều tương tự, một đề mục có ý nghĩa và gây quan tâm không những cho người Mỹ, mà vì quyền lực của chính Hoa Kỳ, còn cho cả thế giới.
Sự chống đối ngày một gia tăng đối với sự tấn công tân tự do đang làm nổi bật một khía cạnh cốt yếu khác của quy ước chuẩn — sự kiện đẩy công chúng qua một bên, một công chúng luôn từ chối vai trò được chấp nhận của khách bàng quan [approved role of spectators], thay vì những thành phần can dự [rather than “participants”] dành cho mình trong lý thuyết dân chủ tự do. Một thái đô bất phục tùng như thế luôn gây âu lo cho các tầng lớp lãnh đạo áp đảo. Theo dõi lịch sử  Hoa Kỳ, chúng ta được biết, George Washington đã xem công chúng, kể cả các chiến binh do chính ông lãnh đạo, như “những người dơ bẩn và kinh tởm, một hình thức dốt nát thiếu trách nhiệm của tầng lớp nhân dân thấp hèn.”
Trong tác phẩm “Chính Trị Bạo Động”, việc duyệt xét đầy đủ thẩm quyền “các cuộc trỗi dậy, từ “sự trỗi dậy của Hoa Kỳ” đến Afghanistan và Iraq đương đại, William Polk đã kết luận: Tướng Washington “đã rất âu lo gạt qua một bên [các dân quân chiến đấu ông khinh bỉ] đến độ xuýt đánh mất cuộc Cách Mạng.” Thực vậy, trong thực tế,  ông “đã có thể đánh mất cuộc cách mạng nếu Pháp đã không can thiệp đại trà và “cứu vãn cuộc Cách Mạng,” một cuộc cách mạng cho đến lúc đó  các  dân quân du kích đang thắng– những thành phần ngày nay chúng ta có thể gọi là “khủng bố” — trong lúc quân đội kiểu Anh Quốc của Washington “đang bị đánh bại nhiều lần và hầu như đang chiến bại.”
Một nét chung của các cuộc trỗi dậy thành công, Polk ghi chép, sau khi chiến thắng, cấp lãnh đạo đã đàn áp số “quần chúng dơ bẩn và kinh tởm” — những dân quân chiến đấu trong thực tế đã thắng cuộc chiến với chiến thuật du kích và khủng bố — vì âu lo những thành phần nầy rất có thể  sẽ thách thức “đặc quyền giai cấp”. Thái độ khinh khi của giới thượng lưu  đối với “tầng lớp thấp hèn của đám quần chúng” đã khoác nhiều hình thức khác nhau qua nhiều năm tháng. Gần đây hơn, một biểu hiện của sự khinh khi là đòi hỏi thái độ thụ động và vâng lời [ôn hòa trong dân chũ], bởi các “nhân vật thuộc khuynh-hướng-thế-giới-tự-do [liberal internationalists], trước các tác động dân chủ hóa nguy hiểm của các phong trào bình dân trong thập kỷ 1960s.
Đôi khi các nhà nước cũng có quyết định đi theo ý kiến của quần chúng, gây phẩn nộ trong các trung tâm quyền lực. Một trường hợp bi thảm đã xẩy ra trong năm 2003, khi chính quyền Bush kêu gọi Thổ Nhĩ Kỳ tham gia xâm lăng Iraq. 95% dân Thổ đã chống đối điều đó, và trước sự ngạc nhiên và kinh hoàng của Hoa Thịnh Đốn, chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã đi theo quan điểm của người dân. Thổ Nhĩ Kỳ đã bị lên án nặng nề  như đã tránh lối xử sự có trách nhiệm. Thứ trưởng Quốc Phòng Paul Wolfowitz,  được báo chí xem như nhân vật lãnh đạo phe lý tưởng của chính quyền,  đã chỉ trích phe quân sự Thổ cho phép một hành động sai lầm của chính quyền và đòi hỏi phải xin lỗi. Không bị lay chuyển bởi những vụ như thế và vô số những vụ “khao khát dân chủ tương tự khác,” các  bình luận đáng kính vẫn tiếp tục khen ngợi Tổng Thống George W. Bush về nhiệt tình “phát huy dân chủ,” hay đôi khi chỉ trích Bush đã ngây thơ trong tư duy một cường quốc bên ngoài có thể áp đặt các khát khao dân chủ của mình lên các xứ khác.
Không riêng gì quần chúng Thổ Nhĩ Kỳ đã hành động như thế. Chống đối toàn cầu trước thái độ xâm lăng của Hoa Kỳ-Anh Quốc cũng luôn mang tính áp đảo. Theo các cuộc thăm dò công luận quốc tế, hậu thuẩn đối với các kế hoạch chiến tranh của Hoa Thịnh Đốn hiếm khi lên đến 10%, hầu như bất cứ ở đâu. Chống đối đã châm ngòi các cuộc phản đối rộng lớn trên khắp thế giới.
Hoa Kỳ cũng tương tự: Có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, xâm lăng mang tính đế quốc đã bị chống đối mạnh mẽ ngay trước khi chính thức phát động. Ngay trên trang đầu báo “the New York Times”, nhà báo Patrick Tyler đã tường trình: “có thể hảy còn hai siêu cường trên hành tinh: Hoa Kỳ và công luận thế giới.”[2]
Chống đối vô tiền khoáng hậu ở Hoa Kỳ là một biểu cảm chống lại cuộc xâm lăng bắt đầu từ nhiều thập kỷ trước đây trong phong trào kết án các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Đông Dương, đạt đến kích cỡ lớn lao với nhiều tác động, ngay cả quá chậm trễ. Vào năm 1967, khi phong trào phản chiến đã là một lực lượng đáng kể, sử gia quân sự và chuyên gia Việt Nam, Bernard Fall, đã cảnh cáo: “Việt Nam như một thực thể văn hóa và lịch sử … đang bị đe dọa bởi khả năng bị tiêu diệt …[trong khi] vùng nông thôn đang đơn thuần mai một dưới những cú đấm phũ phàng bởi guồng máy quân sự lớn nhất chưa bao giờ giáng xuống một vùng với kích cỡ đó.”[3]
Nhưng phong trào phản chiến đã thực sự trở thành một lực lượng không còn có thể làm ngơ. Phong trào cũng không thể bị bỏ quên khi Ronald Reagan vào Bạch Ốc và quyết tâm phát động tấn công vào Trung Mỹ. Chính quyền Reagan đã nhại theo mọi bước đi của John F. Kennedy 20 năm trước đó khi phát động cuộc chiến chống lại Nam Việt Nam, nhưng cũng đã phải lùi bước vì lẽ thiếu vắng phong trào phản chiến hùng mạnh của quần chúng Hoa Kỳ vào đầu thập kỷ 1960s. Nhưng cuộc tấn công cũng đã khá kinh hoàng. Các nạn nhân vẫn còn phải hồi phục. Nhưng những gì đã xẩy ra cho Nam Việt Nam, và về sau cho toàn bộ Đông Dương — nơi “siêu cường thứ hai” chỉ đã áp đặt các chướng ngại vật chậm hơn nhiều trong cuộc xung đột, còn tệ hại hơn rất nhiều.
Nhiều người lập luận sự chống đối lớn lao của quần chúng đối với các cuộc xâm lăng Iraq đã không có hiệu quả. Điều nầy hình như không mấy đúng. Một lần nữa, cuộc xâm lăng cũng đã đủ rùng rợn, và hậu quả cũng vô cùng lố bịch. Tuy nhiên, tình trạng  cũng đã có thể tồi tệ hơn nhiều. Phó Tổng Thống Dick Cheney, Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld, và phần còn lại của các quan chức cao cấp của Bush, có thể không bao giờ ngay cả xem xét loại biện pháp Tổng Thống Kennedy và Tổng Thống Lyndon Johnson đã chấp thuận 40 năm trước đó, phần lớn đã không bị phản đối.
CƯỜNG QUỐC TÂY PHƯƠNG DƯỚI ÁP LỰC
Đã hẳn, vẫn còn nhiều điều có thể nói về quyết định chính sách của nhà nước đã được xếp qua một bên, khi chính quyền Mỹ chấp thuận quy ước chuẫn: nhà nước quyết định mọi hành động trên bàn cờ quốc tế. Nhưng với các cảnh cáo quan trọng như ở đây, chúng ta vẫn sử dụng quy ước — ít nhất là để tiến đến gần với thực tế hơn. Vấn đề “ai đang cai trị thế giới” luôn được đối diện trước các ưu tư như sự trỗi dậy của Trung Quốc như một đại cường đang thách thức Hoa Kỳ và “trật tự thế giới”; chiến tranh lạnh mới đang âm ỉ ở Đông Âu; Chiến Tranh Chống Khủng Bố Toàn Cầu; quyền bá chủ và đà tuột dốc của Hoa Kỳ; và nhiều lý do tương tự.
Những thử thách các cường quốc Tây Phương đang phải đối diện vào đầu năm 2016 đã được tóm lược một cách khá hữu ích bên trong khuôn khổ quy ước bởi Gideon Rachman, nhà bình luận ngoại giao hàng đầu của tờ “London Financial Times”.
Rachman bắt đầu tái duyệt bức tranh của Tây Phương trong trật tự thế giới: “Kể từ khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, quyền lực áp đảo của giới quân sự Hoa Kỳ đã luôn là sự kiện trung tâm của chính trị thế giới. “Thực tế nầy đặc biệt chính yếu trong ba khu vực: Đông Á, nơi “Hải Quân Hoa Kỳ đã quen xem Thái Bình Dương như “hồ nước của Mỹ”; Âu Châu, nơi NATO — cũng có nghiã là Hoa Kỳ, đang phải tài trợ 3/4 ngân sách quân sự của NATO” — “bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ  của các quốc gia thành viên”; và Trung Đông, nơi các căn cứ hải quân và không quân khổng lồ của Hoa Kỳ đang hiện diện để trấn an các quốc gia bạn và hăm he các quốc gia cạnh tranh.”[4]
Rachman nói tiếp,””các trật tự an ninh hiện nay đang bị thử thách trong cả ba khu vực,” vì lẽ can thiệp của Nga ở Ukraine và Syria, và vì lẽ Trung Quốc đang biến các vùng biển kế cận từ một hồ nước của Hoa Kỳ thành vùng biển rõ ràng đang bị tranh chấp.”
Vấn đề căn bản của quan hệ quốc tế, lúc đó, là liệu Hoa Kỳ có nên “chấp nhận: các cường quốc quan trọng khác cũng có quyền có các khu vực ảnh hưởng nào đó trong những vùng lân cận.” Rachman nghĩ: Hoa Kỳ “nên — vì lý do khuếch tán sức mạnh kinh tế quanh thế giới — phối hợp với tục thức đơn thuần.”[5]
Đã hẳn, có nhiều phương cách để nhìn thế giới từ nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng chúng ta tạm hạn chế vào ba khu vực nầy, đã hẳn, là những vùng cưc kỳ quan trọng.
MỘT THỬ THÁCH NGÀY NAY: ĐÔNG Á
Bắt đầu với “hồ nước của Hoa Kỳ” [American lake].  Các quan chức quốc phòng cao cấp cho biết, nhiều người rất có thể đã “cau mày” khi đọc một tường trình báo chí giữa tháng 12- 2015: “một pháo đài bay B-52, trong một phi vụ thường lệ trên vùng Biển Nam Trung Quốc vô tình đã bay bên trong hai hải lý gần một hải đảo nhân tạo do Trung Quốc bồi đắp, đã làm trầm trọng thêm đề tài gây tranh cãi sốt nóng ở Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh.”
Những ai quen thuộc với lịch sử u ám 70 năm của kỷ nguyên vũ khí nguyên tử đã hiểu quá rõ: đây là loại biến động thường tiến gần một cách quá nguy hiểm đến khả năng châm ngòi chiến tranh nguyên tử gây diệt vong cho cả hành tinh. Không cần phải là một thành phần hậu thuẩn các hành động gây hấn khiêu khích trong vùng Biển Nam Trung Quốc để ghi nhận biến động đã không dính dấp một pháo đài bay có khả năng nguyên tử trong vùng Biển Caribbean, hay ngoài bờ biển California, nơi Trung Quốc không hề mang tham vọng thiết kế một “hồ nước Trung Quốc.” Thế giới thật sự may mắn!
Giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu rất rõ: các con đường giao thương hàng hải của xứ họ đang bị vây bủa bởi các cường quốc thù nghịch, từ Nhật Bản xuyên qua Eo Biển Malacca và xa hơn, và được hậu thuẩn bởi lực lượng quân sự áp đảo của Hoa Kỳ.
Vì vậy, Trung Quốc đang luôn tiếp tục bành trướng về phía Tây với các chương trình đầu tư rộng lớn và các động thái thận trọng hướng đến hội nhập. Một phần, các chương trình nầy hiện chỉ giới hạn trong khuôn khổ “Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải” [SCO], bao gồm các xứ Trung Á và Nga, và một ngày gần đây, cả Ấn Độ và Hồi Quốc [Pakistan], với Iran như một trong số các quốc gia quan sát viên — một quy chế chẳng những không mở cửa đón nhận Hoa Kỳ, mà còn kêu gọi quốc gia nầy đóng cửa tất cả các căn cứ quân sự trong vùng.
Trung Quốc cũng đang thiết kế một dạng thức các con đường tơ lụa xưa cũ được canh tân, với ý định không những hội nhập toàn vùng dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, mà còn mở rộng tầm với đến Âu Châu và các vùng sản xuất dầu khí Trung Đông. Trung Quốc cũng đang rót các ngân khoản khổng lồ nhằm cấu tạo một hệ thống năng lượng và thương mãi Á Châu hội nhập, với hệ thống hỏa xa cao tốc và hệ thống các ống dẫn năng lượng.
Một yếu tố của chương trình là một xa lộ xuyên qua vài dãy núi cao nhất thế giới, chạy đến hải cảng mới Gwadar ở Pakistan do Trung Quốc thiết kế, để bảo vệ việc chuyên chở năng lượng tránh mọi can dự tiềm năng của Hoa Kỳ.
Trung Quốc và Pakistan cũng hy vọng, chương trình có thể thúc đẩy phát triển kỹ nghệ ở Pakistan — điều Hoa Kỳ đã không đảm nhiệm mặc dù từ lâu đã viện trợ quân sự đại trà, và cũng có thể đem lại động lực cho Pakistan dẹp bỏ khủng bố quốc nội, một đề tài nghiêm trọng đối với Trung Quốc trong tỉnh Tân Cương phía Tây.
Hải cảng Gwadar sẽ là một phần trong chuổi ngọc trai của Trung Quốc, những căn cứ đang được xây cất trong Ấn Độ Dương nhằm các mục đích thương mãi nhưng cũng có tiềm năng sử dụng vào các mục đích quân sự, với hy vọng Trung Quốc một ngày nào đó cũng có thể có đủ khả năng phóng chiếu quyền lực đến vùng Vịnh Ba Tư lần đầu tiên trong kỷ nguyên hiện nay.
Tất cả những động thái trên đây đều miễn nhiễm đối với quyền lực quân sự áp đảo của Hoa Thịnh Đốn. Ngược lại, ngay cả Hoa Kỳ cũng có thể phải bị diệt vong bởi cùng một cuộc chiến nguyên tử.
Trong năm 2015, Trung Quốc cũng đã thiết lập Ngân Hàng Đầu Tư Hạ Tầng Cơ Sở Á Châu [Asian Infrastructure Investment Bank — AIIB], với Trung Quốc là cổ đông chính. Năm mươi sáu quốc gia đã tham dự lễ khai trương ở Bắc Kinh trong tháng 6, bao gồm các đồng minh của Hoa Kỳ, như Úc Đại Lợi, Anh Quốc, và nhiều xứ thành viên khác, trái ngược với các ước muốn của Hoa Thịnh Đốn. Hoa Kỳ và Nhật Bản đã vắng mặt.  Vài nhà phân tích tin: ngân hàng mới có thể trở thành một ngân hàng cạnh tranh với các định chế Bretton Woods [Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế  và Ngân Hàng Thế Giới —  IMF và World Bank], trong đó Hoa Kỳ nắm quyền phủ quyết. Cũng có vài chờ đợi:  SCO rất có thể sẽ trở thành một đối trọng đối với NATO.
MỘT THỬ THÁCH KHÁC: ĐÔNG ÂU
Quay qua vùng Đông Âu:  Một khủng hoảng đang âm ỉ tại biên giới NATO-Nga. Đây cũng là vấn đề không nhỏ.
Trong một nghiên cứu soi sáng và chính đáng mang tính học giả cấp vùng: ” Mặt Trận Ukraine: Khủng Hoảng trong vùng các Biên Giới”, Richard Sakwa đã viết rất rõ ràng: “cuộc chiến Nga-Georgia trong tháng 8-2008 qủa thật là cuộc chiến đầu tiên chận đứng sự lan rộng của NATO; khủng hoảng Ukraine năm 2014 là cuộc chiến thứ hai. Không rõ liệu nhân loại có thể nào thượng tồn sau cuộc chiến thứ ba.”
Tây Phương xem sự bành trướng của NATO như vô hại. Không có gì đáng ngạc nhiên. Nga, cùng với phần lớn Nam Bán Cầu, cũng như vài tiếng nói Tây Phương quan trọng khác, có một ý kiến khác hơn. Trước đó, George Kennan đã cảnh cáo: sự bành trướng của NATO là “một lỗi lầm bi đát,” và ông đã được các chính khách lão thành Hoa Kỳ hậu thuẩn trong một thư ngõ gửi Tòa Bạch Ốc mô tả như một sai lầm chính sách mang tầm vóc lịch sử”.
Cuộc khủng hoảng hiện nay đã bắt nguồn từ năm 1991, khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt và Liên Bang Xô Viết sụp đổ. Lúc đó, đang có hai viễn kiến trái ngược về một hệ thống an ninh và kinh tế chính trị mới trong vùng Âu-Á.
Theo lời Sakwa, một viễn kiến về một “‘Âu Châu Rộng Hơn’ [Wider Europe] với Liên Hiệp Âu Châu [EU] ở trung tâm nhưng ngày một gia tăng cùng chung biên giới với cộng đồng an ninh Euro-Atlantic và cộng đồng chính trị;
Và phía bên kia, còn có ý niệm “Âu Châu Nới Rộng” [Greater Europe], một viễn kiến về một Âu Châu lục địa, trải dài từ Lisbon đến Vladivostok, có nhiều trung tâm, bao gồm Brussels, Moscow và Ankara, nhưng với mục tiêu chung vượt qua sự chia rẽ mang truyền thống gây nhiễu loạn trong cùng lục địa.”[6]
Lãnh tụ Xô Viết Mikhail Gorbachev là người đề xuất quan trọng một “Âu Châu Nới Rộng”, một khái niệm có gốc rễ Âu Châu trong chủ thuyết Gaullism và các sáng kiến khác. Tuy nhiên, trong khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ dưới các cải cách thị trường tai họa trong thập kỷ 1990s, viễn kiến đã phai nhạt dần và chỉ được tân tạo trở lại khi Nga bắt đầu hồi phục và đi tìm một chỗ đứng trên sân khấu chính trị thế giới, dưới quyền lãnh đạo của Vladimir Putin, song hành với cộng tác viên lý tưởng, Dmitry Medvedev, đã liên tục kêu gọi thống nhất địa chính trị một Âu Châu Nới Rộng từ Lisbon đến Vladivostok, để tạo thành một “đối tác chiến lược” chân chính.”‘[7]
Sakwa viết, các sáng kiến nầy đã được đón chào với “khinh khi lễ phép”[greeted with polite contempt] và được xem như không mấy khác một vỏ ngoài che đậy việc thiết kế một nước Nga Nới Rộng lén lút và một nỗ lực”chia rẽ giữa Bắc Mỹ và Tây Âu. Những quan tâm như thế có thể đã phát xuất từ những âu lo Chiến Tranh Lạnh trước đây: Âu Châu rất có thể trở thành một “lực lượng thứ ba” độc lập với đại siêu cường lẫn tiểu siêu cường, và ngày một xích lại gần hơn với tiểu siêu cường [như có thể thấy trong Ostpolitik  của Willy Brandt và các sáng kiến khác].
Đáp ứng của Tây Phương trước sự sụp đổ của Nga là thái độ của kẻ đại thắng. Biến cố được hoan nghênh như báo trước một “chung cuộc của lịch sử,” chiến thắng cuối cùng của “dân chủ tư bản Tây Phương”, không mấy khác Nga đang được chỉ giáo trở về với quy chế tiền-Đệ Nhất Thế Chiến gần như một thuộc địa kinh tế của Tây Phương.
Cùng lúc, NATO đã bắt đầu mở rộng ngay tức khắc, vi phạm bảo đảm với Gorbachev:  NATO sẽ không dịch chuyển “một inch về hướng đông,” sau khi Gorbachev đã đồng ý: Một Đức Quốc thống nhất có thể trở thành một thành viên của NATO — một nhượng bộ đáng kể, trong ánh sáng của lịch sử. Cuộc thảo luận chỉ được giới hạn vào Đông Đức, và sự kiện NATO khả dĩ bành trướng quá Đức Quốc đã không được thảo luận trước với Gorbachev, ngay cả nếu đã được cứu xét một cách riêng tư.
Chẳng bao lâu sau, NATO đã bắt đầu dịch chuyển vượt quá Đức Quốc đến tận biên giới của Nga. Sứ mệnh chung của NATO đã chính thức được đổi thành “bảo vệ hạ tầng cơ sở thiết yếu” của hệ thống năng lượng toàn cầu, các đường biển và ống dẫn dầu, đem lại cho NATO một phạm vi hoạt động toàn cầu. Hơn nữa, với một tái duyệt Tây Phương thiết yếu, chủ thuyết “trách nhiệm bảo vệ,” nay đã được loan báo rộng rãi khác hẳn với dạng thức chính thức của Liên Hiệp Quốc; và NATO nay cũng có thể phục vụ như một lực lượng can thiệp dưới quyền tư lệnh của Hoa Kỳ.
Mối âu lo đặc biệt riêng tư đối vối Nga là các kế hoạch bành trướng NATO đến Ukraine. Các kế hoạch nầy đã được minh thị triển khai tại hội nghị thượng đỉnh của NATO tại Bucharest trong tháng 4-2008, khi Georgia và Ukraine được hứa hẹn vai trò thành viên lâm thời trong NATO. Lời lẽ đã minh bạch:” NATO hoan nghênh khát vọng Euro-Atlantic của Ukraine và Georgia làm thành viên NATO. Hôm nay, chúng tôi đã đồng ý hai xứ nầy sẽ trở thành hai thành viên của NATO.” Với chiến thắng “Cách Mạng Cam”của các ứng cử viên thân-Tây Phương ở Ukraine trong năm 2004, đại diện Bộ Ngoại Giao, Daniel Fried, đã vội vàng đến đó và “đã nhấn mạnh hậu thuẩn của Hoa Kỳ đối với các khát vọng NATO và Euro-Atlantic của Ukraine,” như một tường trình WikiLeaks đã tiết lộ.
Các âu lo của Nga là khá dễ hiểu. Các nét chính những âu lo nầy đã được học giả các quan hệ quốc tế, John Mearsheimer, thuộc báo Foreign Affairs của Hoa Kỳ, phác thảo. Mearsheimer viết: “Gốc rễ của cuộc khủng hoảng hiện nay [về Ukraine] là sự bành trướng của NATO và cam kết của Hoa Thịnh Đốn dịch chuyển Ukraine ra khỏi quỹ đạo của Mạc Tư Khoa và hội nhập Ukraine vào Tây Phương,” điều Putin xem như một đe dọa trực tiếp đối với các quyền lợi cơ bản của Nga.”[8]
“Ai có thể chỉ trích Putin?” Mearsheimer hỏi, nêu rõ “Hoa Thịnh Đốn có thể không thích lập trường của Mạc Tư Khoa, nhưng Hoa Thịnh Đốn nên hiểu các lý do hay lôgic bên sau.” Điều đó không quá khó. Xét cho cùng, như mọi người đều biết, ” Hoa Kỳ không tha thứ những đại cường xa xôi giàn trãi các lực lượng quân sự  bất cứ ở đâu trong Tây bán cầu, nói gì đến biên giới của chính Hoa Kỳ.”[9]
Trong thực tế, lập trường của Hoa Kỳ mạnh mẽ hơn xa. Hoa Kỳ không tha thứ những gì chính thức được gọi là “thách thức thành công Chủ Thuyết Monroe năm 1823” — chủ thuyết đã tuyên bố [nhưng chưa thể thực thi] quyền kiểm soát Tây bán cầu của Hoa Kỳ. Và một xứ nhỏ đã thể hiện một thách thức thành công như thế có thể phải gánh chịu “những kinh hoàng trên địa cầu” và “một lệnh cấm vận trí mạng và gây tan nát đỗ vỡ” — như đã xẩy ra cho Cuba. Chúng ta chẳng cần phải hỏi bằng cách nào Hoa Kỳ có thể đã phản ứng nếu các xứ Mỹ Latin tham gia vào Thỏa Ước Warsaw, với các kế hoạch giúp Mexico và Canada cũng tham gia. Chỉ cần một lời bóng gió đơn thuần của những bước ngập ngừng đầu tiên theo chiều hướng nầy cũng đã có thể đủ để bị kết liểu với tổn hại tận cùng,” theo ngôn ngữ của CIA.
Như trong trường hợp của Trung Quốc, không ai cần phải nhìn những động thái và lý do của Putin một cách thuận lợi để hiểu được lôgic phía sau, cũng không cần nắm vững tầm quan trọng hiểu rõ lôgic nầy thay vì đưa ra những lời  chống đối nguyền rủa. Nói một cách khác, nhiều thứ đang lâm nguy, và còn đi xa hơn quá nhiều –nói rõ ra — xa như vấn đề sống còn của nhân loại.
MỘT THỬ THÁCH KHÁC: THẾ GIỚI HỒI GIÁO
Vùng đáng âu lo thứ ba, đa số là dân Hồi Giáo, cũng là địa bàn chính của Cuộc Chiến Chống Khủng Bố Toàn Cầu [GWOT] do George W. Bush phát động năm 2001 ngay sau biến cố 11/9. Chính xác hơn: tái phát động…
GWOT đã do chính quyền Reagan phát động khi lên cầm quyền với chiêu bài sôi sục về “dịch nạn lan truyền bởi phe chống đối đồi trụy chính của nền văn minh” [theo lời Reagan] và là “sự quay trở lại tình trạng man rợ trong kỷ nguyên hiện đại” [theo lời George Schultz, bộ trưởng ngoại giao của Reagan]. GWOT nguyên thủy đã lặng lẽ biến khỏi lịch sử, và nhanh chóng trở thành cuộc chiến khủng bố ở Trung Mỹ, Nam Phi, và Trung Đông với tiếng vang bi thiết cho đến nay, ngay cả đang dẫn đến sự lên án Hoa Kỳ bởi Tòa Án Quốc Tế [gạt bỏ bởi Hoa Thịnh Đốn]. Trong mọi trường hợp, đây không phải là câu chuyện đứng đắn đối với lịch sử, do đó đã tự tan biến.
Sự thành công với dạng thức GWOT của Bush-Obama đã có thể được đánh giá qua lượng định trực tiếp. Khi cuộc chiến được phát động, các mục tiêu khủng bố chỉ hạn chế trong một góc nhỏ của các bộ lạc Afghanistan. Các mục tiêu đã được Afghanistan bảo vệ, những người phần lớn không ưa thích hay khinh khi họ, theo luật hiếu khách hay đãi ngộ của bộ lạc — điều gây ngạc nhiên đối với người Mỹ là khi các dân quê nghèo nàn đã từ chối “trao Osama bin Laden cho Hoa Kỳ để đổi lấy một số tiền, đối với họ là kếch sù — lên đến 25 triệu mỹ kim.”
Đã có đủ lý do để tin tưởng một hành động cảnh sát được chuẩn bị kỷ lưỡng, hay ngay cả các thương thảo ngoại giao đứng đắn với Taliban, các nghi can tội phạm 11/9 cũng đã có thể được trao vào tay người Mỹ để xét xử và tuyên án. Nhưng những lựa chọn đó đã không được xét tới. Thay vào đó, một lựa chọn theo phản ứng tức thời, đã là bạo động cỡ lớn — không với mục tiêu lật đổ Taliban , mà chỉ để tỏ rõ thái độ khinh bỉ của người Mỹ trước các toan tính hay đề nghị nửa vời  của Taliban về khả năng dẫn độ bin Laden. Những đề nghị ướm thử đó nghiêm chỉnh như thế nào, chúng ta không được biết, bởi lẽ chỉ một thăm dò khả dĩ cũng chẳng được nghĩ tới. Hoặc có lẽ Hoa Kỳ “chỉ muốn chứng tỏ quyền lực của mình, ghi nhận một thắng lợi, và răn đe mọi người trên thế giới. Người Mỹ không quan tâm đến những khổ đau của quần chúng Afghanistan hay số người Mỹ có thể phải bỏ mạng.”
Đó là phán đoán của lãnh đạo chống Taliban đáng kính — Abdul Haq, một trong số đông phe đối lập, những người kết án chiến dịch dội bom, phát động trong tháng 10-2001, như “một thất bại lớn” đối với nỗ lực của chính họ nhằm lật đổ phe Taliban từ bên trong, một mục tiêu họ xem như đang trong tầm tay. Phán đoán của Abdul Haq được Richard A. Clark, chủ tịch Nhóm An Ninh Chống Khủng Bố  tại Bạch Ốc dưới thời Geoge W. Bush, xác nhận, khi các kế hoạch tấn công Afghanistan được soạn thảo.
Theo lời của Clarke, trong cuộc họp, khi được thông báo cuộc tấn công có thể vi phạm luật quốc tế, “tổng Thống [Bush] đã thét lên trong phòng hội chật hẹp: “Tôi không quan tâm những gì các luật gia quốc tế nói, chúng ta sẽ đá  vào mông một số người.” Cuộc tấn công cũng bị chống đối mạnh mẽ bởi các tổ chức viện trợ quan trọng đang làm việc ở Afghanistan — những người cảnh cáo hàng triệu người đang trên bờ nạn đói và hậu quả có thể khá khủng khiếp.
Các hậu quả đối với Afghanistan nghèo nàn trong những năm sau đó cũng chẳng cần phải ôn lại.
Mục tiêu kế tiếp của búa tạ là Iraq. Cuộc xâm lăng Mỹ-Anh, hoàn toàn không một duyên cớ khả tín, là một trọng tội của thế kỷ XXI. Cuộc chiến xâm lược đã đưa đến cái chết của hàng trăm nghìn thường dân trong một xứ — nơi xã hội dân sự đã bị hủy hoại bởi các chế tài Anh-Mỹ được xem như những biện pháp diệt chủng bởi hai nhà ngoại giao quốc tế khả kính quản trị các chương trình nầy, và cũng đã phải từ chức vì cùng một lý do. Cuộc xâm lăng cũng đã gây ra hàng triệu người tỵ nạn, đập tan phần lớn một trong nhiều quốc gia, và đưa đến các xung đột giáo phái ngày nay đã làm rách nát Iraq và toàn vùng. Đó là một sự kiện thực tế đáng ngạc nhiên đối với văn hóa trí thức và đạo đức của người Mỹ, một sự kiện, trong giới hiểu rộng thấy xa và sáng suốt, có thể gọi một cách mai mĩa là “giải phóng Iraq.”
Các cuộc thăm dò công luận của Ngũ Giác Đài và Bộ Quốc Phòng Anh Quốc đã cho  biết: chỉ 3% người Iraq xem vai trò an ninh của Hoa Kỳ trong các khu láng giềng của họ như chính đáng; ít hơn 1% tin các lực lượng liên minh Anh-Mỹ là tốt cho an ninh của họ; 80% chống đối sự hiện diện của các lực lượng quân sự của các nước ngoài; và đại đa số nhân dân trong toàn vùng hậu thuẩn các cuộc tấn công vào quân đội liên minh. Afghanistan đã bị san bằng, vượt ra ngoài khả năng thăm dò dư luận có thể tin cậy, nhưng cũng có nhiều chỉ dấu  một cái gì tương tự  cũng có thể thực sự hiện hữu ở đó. Đặc biệt là ở Iraq, Hoa Kỳ đã phải gánh chịu một thất bại nghiêm trọng, đã phải từ bỏ các mục tiêu chiến tranh chính thức, và đã phải rời khỏi địa bàn dưới ảnh hưởng của xứ chiến thắng duy nhất — Iran.
Búa tạ cũng đã được sử dụng ở nhiều nơi khác, nhất là Libya, nơi ba đại cường đế quốc truyền thống [Anh, Pháp, và Hoa Kỳ] đã nhận được quyết nghị của Hội Đồng Bảo An năm 1973, và lập tức vi phạm, và đã  trở thành không lực của phe nỗi loạn. Kết qủa là làm suy giảm tính khả dĩ của một giàn xếp hòa bình qua thương thảo; gia tăng nhanh chóng số thương vong [ít ra gấp 10, theo khoa học gia chính trị Alan Kuperman]; để lại phía sau một Libya đỗ nát trong tay các nhóm chiến binh hỗn tạp; và gần đây hơn, cung cấp cho Islamic State một căn cứ có thể dùng để gieo rắc khủng bố khắp nơi. Theo chuyên gia Phi Châu Alex de Vaal , các đề nghị ngoại giao khá hợp lý của Liên Hiệp Phi Châu, được Muammar Qaddafi của Libya chấp nhận trên nguyên tắc, đã bị ba đại cường đế quốc làm ngơ. Một dòng chảy lớn lao  các vũ khí  và dân quân thánh chiến đã gieo rắc khủng bố và bạo động từ Tây Phi [nay là quán quân ám sát khủng bố] đến Levant, trong khi sự tấn công của NATO cũng đã gây ra làn sóng tỵ nạn từ Phi Châu đến Âu Châu.
Tuy vậy, theo Chilcot Report, một tài liệu dài và ghê rợn đã tiết lộ gần đây, một “can thiệp nhân đạo thành công” khác, không phải một can thiệp bất thường, đang trở lại các cội nguồn tân thời cách đây bốn thế kỷ.”

Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
01-8-2016


[1]  The executive director of the Paris-based research group EuropaNova attributes the general disenchantment to “a mood of angry impotence as the real power to shape events largely shifted from national political leaders [who, in principle at least, are subject to democratic politics] to the market, the institutions of the European Union and corporations,” quite in accord with neoliberal doctrine.
[2] “there may still be two superpowers on the planet: the United States and world public opinion.”
[3] Unprecedented protest in the United States was a manifestation of the opposition to aggression that began decades earlier in the condemnation of the U.S. wars in Indochina, reaching a scale that was substantial and influential, even if far too late. By 1967, when the antiwar movement was becoming a significant force, military historian and Vietnam specialist Bernard Fall warned that “Vietnam as a cultural and historic entity… is threatened with extinction… [as] the countryside literally dies under the blows of the largest military machine ever unleashed on an area of this size.”
[4] He begins by reviewing the Western picture of world order: “Ever since the end of the Cold War, the overwhelming power of the U.S. military has been the central fact of international politics.” This is particularly crucial in three regions: East Asia, where “the U.S. Navy has become used to treating the Pacific as an ‘American lake’”; Europe, where NATO — meaning the United States, which “accounts for a staggering three-quarters of NATO’s military spending” — “guarantees the territorial integrity of its member states”; and the Middle East, where giant U.S. naval and air bases “exist to reassure friends and to intimidate rivals.”
[5] The fundamental question of international relations, then, is whether the United States should “accept that other major powers should have some kind of zone of influence in their neighborhoods.” Rachman thinks it should, for reasons of “diffusion of economic power around the world — combined with simple common sense.”
[6] The present crisis has its origins in 1991, with the end of the Cold War and the collapse of the Soviet Union. There were then two contrasting visions of a new security system and political economy in Eurasia. In Sakwa’s words, one vision was of a “‘Wider Europe,’ with the EU at its heart but increasingly coterminous with the Euro-Atlantic security and political community; and on the other side there [was] the idea of ‘Greater Europe,’ a vision of a continental Europe, stretching from Lisbon to Vladivostok, that has multiple centers, including Brussels, Moscow and Ankara, but with a common purpose in overcoming the divisions that have traditionally plagued the continen
[7] Soviet leader Mikhail Gorbachev was the major proponent of Greater Europe, a concept that also had European roots in Gaullism and other initiatives. However, as Russia collapsed under the devastating market reforms of the 1990s, the vision faded, only to be renewed as Russia began to recover and seek a place on the world stage under Vladimir Putin who, along with his associate Dmitry Medvedev, has repeatedly “called for the geopolitical unification of all of ‘Greater Europe’ from Lisbon to Vladivostok, to create a genuine ‘strategic partnership.’”
[8] Russia’s concerns are easily understandable. They are outlined by international relations scholar John Mearsheimer in the leading U.S. establishment journal, Foreign Affairs. He writes that “the taproot of the current crisis [over Ukraine] is NATO expansion and Washington’s commitment to move Ukraine out of Moscow’s orbit and integrate it into the West,” which Putin viewed as “a direct threat to Russia’s core interests.”
[9] “Who can blame him?” Mearsheimer asks, pointing out that “Washington may not like Moscow’s position, but it should understand the logic behind it.” That should not be too difficult. After all, as everyone knows, “The United States does not tolerate distant great powers deploying military forces anywhere in the Western hemisphere, much less on its borders.

No comments: