Monday, April 24, 2017

BIỂN ĐÔNG: DẦU MỎ, NHỮNG YÊU SÁCH TRÊN BIỂN VÀ CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC MỸ - TRUNG

Nguồn: Leszek Buszynski (2012). “The South China Sea: Oil, Maritime Claims, and U.S.–China Strategic Rivalry”, The Washington Quarterly, 35:2, 139-156. - See more at: http://nghiencuuquocte.org/2013/06/27/bien-dong-buszynski/#sthash.x6GhijGk.dpuf

Nguy cơ xung đột leo thang từ những sự kiện tương đối nhỏ đã tăng lên tại Biển Đông trong hơn hai năm qua với những cuộc tranh chấp bây giờ ít có cơ hội hơn để đàm phán hoặc giải quyết. Về nguồn gốc, những tranh chấp này nảy sinh từ sau Thế chiến thứ hai khi những quốc gia ven biển – Trung Quốc và 3 nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), gồm Indonesia, Malaysia và Philipines, cũng như Việt Nam sau này – tranh giành để chiếm giữ những hòn đảo ở đó [Chi tiết này không chính xác – NHĐ]. Nếu vấn đề này chỉ đơn thuần là về tranh chấp lãnh thổ, thì nó có thể đã được giải quyết thông qua những nỗ lực của Trung Quốc nhằm xích lại gần ASEAN và thắt chặt quan hệ với khu vực này.


Khoảng những năm 1990, việc tiếp cận các mỏ dầu và khí cũng như nguồn cá và tài nguyên biển đã bắt đầu làm phức tạp hóa các yêu sách. Vì nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng lên, các bên yêu sách đề ra những kế hoạch khai thác các mỏ hydrocarbon của Biển Đông, khiến cho tranh chấp tiếp bước một cách không có gì bất ngờ, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, những tranh chấp năng lượng này không nhất thiết phải dẫn đến xung đột, vì chúng đã và có thể tiếp tục sẽ được quản lý thông qua cơ chế phát triển chung hoặc đa phương, điều đã có nhiều tiền lệ khác nhau mặc dù không trường hợp nào phức tạp như Biển Đông.

Tuy nhiên, hiện tại, vấn đề đã không còn chỉ là những yêu sách chủ quyền và việc tiếp cận nguồn tài nguyên năng lượng, vì Biển Đông đã trở thành trọng tâm của cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung tại Tây Thái Bình Dương. Kể từ năm 2010, Biển Đông đã bắt đầu trở nên liên quan tới những vấn đề chiến lược rộng lớn hơn liên quan đến chiến lược hải quân của Trung Quốc và sự hiện diện của Hoa Kỳ tại khu vực. Điều này làm cho cuộc tranh chấp trở nên nguy hiểm và là lý do gây quan ngại, đặc biệt khi Hoa Kỳ đã tái khẳng định lợi ích của mình tại Châu Á Thái Bình Dương và củng cố quan hệ an ninh với các bên yêu sách thuộc ASEAN trong cuộc tranh chấp.

Nguồn gốc tranh chấp về lãnh thổ

Trung Quốc và Việt Nam đòi hỏi chủ quyền toàn bộ khu vực Biển Đông và các đảo ở đó trong khi Malaysia, Philipines, Indonesia và Brunei tuyên bố yêu sách đối với các khu vực tiếp giáp. Có hai nguyên tắc chi phối các yêu sách, mà cả hai đều chống lại yêu sách đòi chủ quyền toàn bộ vùng biển của Trung Quốc. Nguyên tắc thứ nhất là “chiếm hữu thực sự”, một tiền lệ đã được thiết lập bởi Tòa Trọng tài Vĩnh viễn trong vụ đảo Palmas tháng 4 năm 1928.1 “Chiếm hữu thực sự” bao gồm khả năng và ý định sử dụng quyền tài phán liên tục và không bị gián đoạn, điều khác với xâm lược. Mặc dù Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa, một quần đảo bao gồm khoảng 30 đảo/ đá cách đều bờ biển Trung Quốc và Việt Nam, nhưng nguyên tắc “chiếm hữu thực sự” đã chống lại Trung Quốc trong trường hợp quần đảo Trường Sa, một quần đảo nằm ngoài khơi Philipines và Malaysia, nơi mà ngoại trừ 9 bãi đá đã bị Trung Quốc chiếm từ năm 1988 đến năm 1992, những đảo/đá còn lại đều do các nước ASEAN có yêu sách chiếm giữ.

Nguyên tắc thứ hai là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đặt ra những quy tắc xác định rằng các yêu sách đối với nguồn tài nguyên phải dựa trên cơ sở vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (EEZ là một vùng biển trải dài tới 320 km tính từ đường bờ biển, là cơ sở cho những đòi hỏi của các quốc gia ven biển với nguồn tài nguyên ở đó). UNCLOS không ủng hộ những yêu sách vượt ra ngoài phạm vi EEZ hoặc các thềm lục địa đã được công bố. Tuy nhiên, yêu sách của Trung Quốc vượt ra xa khỏi phạm vi EEZ của họ và chồng lấn với những yêu sách hợp pháp của các nước ASEAN.

Những yêu sách của Trung Quốc dựa trên lịch sử, nhưng những yêu sách như vậy không có nhiều giá trị trong luật quốc tế, cái mà theo quan điểm của Trung Quốc đã hạ thấp (lý do) di sản tổ tiên để lại của họ và là nguồn gốc cho sự bất mãn của nước này. Quan điểm của Trung Quốc là yêu sách của nước này có trước UNCLOS (được thông qua vào năm 1982 và có hiệu lực vào năm 1994 sau khi quốc gia thứ 60 phê chuẩn), và rằng Công ước này cần được điều chỉnh để phù hợp với các quyền lịch sử. Để khẳng định những yêu sách mà trong tình huống này sự phức tạp của luật quốc tế có thể không ủng hộ họ, người Trung Quốc đã dùng đến áp lực ngoại giao thường trực để luật quốc tế phải được thay đổi hoặc để đạt được một ngoại lệ đặc biệt, theo đó những yêu sách từ các thế hệ trước của họ sẽ được tất cả các bên công nhận.

Dầu mỏ, năng lượng, và nghề cá

Nếu chỉ là một tranh chấp chủ quyền đơn thuần, Biển Đông có thể sẽ đã tiếp tục bế tắc như vậy mà không nhiết thiết phải giải quyết ngay. Tuy nhiên, sự tồn tại của nguồn dự trữ năng lượng trong khu vực đã ngăn chặn giải pháp này. Với nhu cầu năng lượng toàn cầu đang tăng lên, những nước tiêu thụ lớn như Trung Quốc đang tìm kiếm những nguồn năng lượng mới để thỏa mãn nền kinh tế đang mở rộng của họ. Năm 2009, Trung Quốc trở thành nước tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, và sức tiêu thụ của họ có thể tăng gấp đôi vào năm 2030, biến nước này thành nước tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới. Năm 2010, Trung Quốc đã nhập khẩu 52% lượng dầu tiêu thụ của mình từ Trung Đông, và Saudi Arabia cùng Angola cộng lại chiến đến 66% lượng dầu nhập khẩu của nước này. Trung Quốc đã và đang đa dạng hóa nguồn cung năng lượng của mình để giảm phụ thuộc vào dầu nhập khẩu và đã tìm cách gia tăng sản lượng ngoài khơi xung quanh lưu vực sông Châu Giang và Biển Đông.2

Các yêu sách năng lượng đối kháng

Việt Nam là quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn trong khu vực, với công ty dầu khí quốc doanh PetroVietnam năm 2010 sản xuất được 24,4 triệu tấn dầu từ ba mỏ ở Biển Đông, tương đương với 26% tổng GDP của Việt Nam.3 Với việc sản lượng ở các mỏ đã xây dựng đang suy giảm, PetroVietnam đã ký 60 hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí với các công ty nước ngoài khác nhau nhằm khai thác các mỏ mới. Tuy nhiên, các mỏ mới được cho là sẽ không đủ bù đắp cho số sản lượng sụt giảm của các mỏ cũ.4 Khi Việt Nam cố gắng khai thác các mỏ mới, có khả năng sẽ xảy ra xung đột mới với Trung Quốc, nước đã kiên quyết phản đối nỗ lực của Việt Nam nhằm ký hợp đồng khai thác với các công ty dầu quốc tế trên Biển Đông.

Trung Quốc cáo buộc các nước ASEAN có yêu sách đã xâm phạm vào vùng biển của họ và cho rằng Trung Quốc có quyền thực thi các yêu sách chống lại các nước này. Chẳng hạn vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, hai tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò dầu khí của một tàu khảo sát đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách bờ biển phía nam Việt Nam khoảng 120 km. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố những đoạn video cho thấy một con tàu Trung Quốc quả thật đã cắt đứt cáp nối với tàu Việt Nam mang tên Bình Minh.5 Jiang Yu, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng tàu Trung Quốc đang tham gia “các hoạt động giám sát và chấp pháp trên biển hoàn toàn bình thường trong khu vực thuộc quyền tài phán của Trung Quốc”.6 Vào ngày 9 tháng 6, một tàu cá Trung Quốc cũng đã đâm ngang cáp khảo sát của một con tàu khảo sát khác của Việt Nam.

Philipines cũng đã có nhiều vấn đề với Trung Quốc. Manila đã nổ lực để nâng cao khả năng tự cung tự cấp dầu của mình, và đặt mục tiêu (tự cung) 60% vào cuối năm 2011, điều mà họ có khả năng không đạt được. Nước này dự tính chào thầu 15 hợp đồng trong những năm tới cho việc thăm dò vùng biển ngoài khơi đảo Palawan, trong một khu vực bị yêu sách bởi Trung Quốc.7  Năm 2011, Philipines đã báo cáo 7 sự cố liên quan đến sự quấy rối của Trung Quốc. Trong một trường hợp, vào ngày 2 tháng 3, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã quấy rối một tàu thăm dò dầu khí trong khu vực mà Philippines yêu sách nằm cách bờ biển Palawan 250 km về phía tây. Hai con tàu này chỉ rời khỏi khu vực sau khi lực lượng không quân Philipines được điều động. Ngày 5 tháng 4, Manila đã phản đối chính thức lên Liên Hợp Quốc và tìm kiếm sự ủng hộ từ ASEAN nhằm đạt được lập trường chung về vấn đề này.8 Người Trung Quốc đã phản ứng lại vài ngày sau đó, chính thức tố cáo Philipines “xâm lược” vùng biển của họ.9 Sau khi Trung Quốc triển khai tàu tuần tra 3000 tấn Haixun-31 được trang bị một trực thăng đến khu vực này, thì vào tháng 6, Philipines đã phải một tàu hải quân loại cũ từ thời Thế chiến thứ hai, tàu Rajah Humabon, đến vùng biển yêu sách của họ.10 Chiếc tàu này đã di dời hết các cột mốc được người Trung Quốc dựng lên trên các bãi đá khác nhau thuộc vùng biển yêu sách bởi Philipines.11 Cũng trong tháng 6, văn phòng tổng thống Philipines cũng tuyên bố đổi tên “Biển Nam Trung Hoa” (Biển Đông) thành “Biển Tây Philipines”, và công bố một chương trình nâng cấp hải quân, điều sẽ giúp nâng cao sự hiện diện hải quân đang hạn chế của họ tại khu vực. 12

Bất chấp phản đối từ phía Trung Quốc, cả Việt Nam và Philipines đều có kế hoạch xúc tiến các dự án thăm dò khí đốt hợp tác với các công ty nước ngoài. PetroVietnam sẽ hợp tác cùng Talisman Energy và sẽ bắt đầu khoan tại một khu vực mà Trung Quốc năm 1992 đã giao cho công ty Crestone, một công ty hiện được điều hành bởi Harvest Natural Resources. ExxonMobil cũng lên kế hoạch khoan thăm dò ngoài khơi Việt Nam, trong khi Philipines dự định khoan tại khu vực nơi mà các tàu Trung Quốc đã quấy rối tàu khảo sát của họ hồi tháng 3 năm 2011.13 

Trong lúc đó, Ấn Độ cũng đã trở nên liên quan với tư cách một tác nhân bên ngoài, càng làm tình hình phức tạp hơn. Trung Quốc có thể có ảnh hưởng với các bên yêu sách ASEAN nhờ quy mô và sự gần gũi về vị trí địa lý của họ với các nước ASEAN, nhưng Ấn Độ lại có một vị thế và sức mạnh đủ để đối kháng với Trung Quốc. Hơn nữa, Ấn Độ vẫn đang chất chứa sự khó chịu riêng với Trung Quốc vì sự ủng hộ của Trung Quốc dành cho Pakistan và các yêu sách của Trung Quốc đối với biên giới chung của hai nước. Những điều này khiến Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi đối phó với Ấn Độ. Quan hệ của Ấn Độ với Việt Nam bắt đầu từ thời của Indira Gandhi, khi chính phủ Gandhi đã công nhận chính phủ do Việt Nam hậu thuẫn tại Campuchia vào năm 1984. Nhiều người Ấn Độ coi Việt Nam như một đồng minh chống lại Trung Quốc.

Tàu hải quân Ấn Độ INS Airavat khi đang di chuyển đến Nha Trang thuộc miền Nam Việt Nam vào tháng 7 năm 2011 thì đã bị Trung Quốc cảnh báo bằng tín hiệu radio là hãy tránh xa “vùng biển Trung Quốc”. Bộ Ngoại giao Ấn Độ phản ứng lại rằng “Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải trên vùng biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông, và quyền qua lại phù hợp với những nguyên tắc đã được công nhận trong luật quốc tế”.14 Trong khi đó, Trung Quốc đã phản đối những hoạt động thăm dò của Công ty Dầu và Khí tự nhiên Ấn Độ (ONGC) xung quanh quần đảo Hoàng Sa, khu vực mà người Trung Quốc đặc biệt nhạy cảm. Quan điểm của ONGC là các yêu sách của Việt Nam phù hợp với luật quốc tế, và họ sẽ tiếp tục các dự án thăm dò tại hai lô gần quần đảo Hoàng Sa.15

Sau đó, khi Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang sang thăm New Delhi, ONGC và PetroVietnam đã ký một hợp đồng ba năm về hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí vào ngày 12 tháng 10 năm 2011, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc.16 Đáng chú ý hơn, hợp đồng này được ký trong khi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang đi thăm Bắc Kinh và bày tỏ tình hữu nghị với Trung Quốc.17 Việt Nam lại dùng đến phương sách truyền thống trong ứng xử với Trung Quốc – tức là nhấn mạnh những điểm chung và tình hữu nghị, vốn là công việc của tổng bí thư Đảng, trong khi vẫn tìm kiếm ở Ấn Độ một đối trọng hiệu quả [để cân bằng với Trung Quốc]. Quả thực, sự can dự của Ấn Độ đến khu vực và mối quan hệ ngày càng thân thiết của họ với Việt Nam sẽ làm cho tình hình Biển Đông thêm khó khăn. Có thể dự đoán là sẽ xảy ra nhiều sự cố hơn nữa, khi mà Trung Quốc vạch ra giới hạn cho cường quốc đối thủ cạnh tranh ở châu Á này.

Cuộc chiến giành cá

Như thể tranh chấp về năng lượng vẫn chưa đủ, sự cạnh tranh về cả nguồn cá và các tài nguyên biển từ Biển Đông cũng góp phần gia tăng căng thẳng. Trong quá khứ, các tàu cá thường xuyên ra vào các vùng chồng lấn, nhưng việc gia tăng mức độ thường xuyên của những vụ việc như vậy đã gây ra những quan ngại. Việt Nam tuyên bố rằng 63 tàu cá cùng 725 ngư dân đã bị phía Trung Quốc bắt giữ trên Biển Đông kể từ năm 2005.18 Sau đó tất cả họ đều bị yêu cầu nộp tiền phạt rất cao thì mới được phóng thích. Trong một vụ việc gây sự chú ý lớn của dư luận Việt Nam, một tàu tuần tra Trung Quốc đã bắt giữ tàu cá Việt Nam cùng 12 thủy thủ khi họ đang hoạt động quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa vào tháng 3 năm 2010. Đây không phải lần đầu tiên Trung Quốc làm điều này và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối dữ dội, và đây là một trường hợp cho thấy sự bất mãn của Việt Nam với hành xử của Trung Quốc.

Trung Quốc áp đặt một lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trên Biển Đông, họ xem đó như là cách bảo tồn nguồn cá cho đội tàu của mình tại Biển Đông. Lần đầu tiên Bắc Kinh ban lệnh cấm là vào năm 1999, từ tháng 6 tới tháng 7 hàng năm, và tới năm 2009 thì họ kéo dài lệnh cấm thành từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8 hàng năm. Phạm vi cấm rất mơ hồ, mặc dù lệnh cấm bao trùm lên một khu vực bao quanh quần đảo Hoàng Sa nhưng lại không vươn xa xuống phía Nam tới quần đảo Trường Sa.20 Việt Nam phản đối kịch liệt, vì lệnh cấm ảnh hưởng tới sinh kế của các ngư dân Việt. Để thực thi lệnh cấm và bảo vệ các tàu cá của mình, Trung Quốc phái đến khu vực các tàu mà họ gọi là “tàu kiểm ngư”, nhưng thực chất đó là những tàu hải quân được hoán chuyển. Trung Quốc cũng đã tuyên bố kế hoạch tăng cường sức mạnh của lực lượng hải giám, lên đến 16 máy bay và 350 tàu biển vào năm 2015, số máy bay và tàu này sẽ được sử dụng để giám sát hoạt động tàu bè trên biển, thực hiện các nhiệm vụ khảo sát, “bảo vệ an ninh hành hải” và kiểm tra các tàu nước ngoài hoạt động “trên vùng biển của Trung Quốc”.21

Một vấn đề khác là tàu Việt Nam cũng đi vào vùng biển mà các nước ASEAN khác yêu sách. Hai tàu Việt Nam mang tên Indonesia đã bị tàu tuần tra Indonesia bắt hồi tháng 2 năm 2011 gần quần đảo Natuna.22 Phía Indonesia nói rằng trong năm 2009, khoảng 180 tàu (không phải tất cả đều là của Việt Nam, ví dụ như có một số là của Malaysia) đã bị bắt giữ vì đánh cá bất hợp pháp trong vùng biển của họ.23 Khi nhu cầu tăng lên mà nguồn cá bị cạn kiệt, việc tranh chấp đánh bắt cá chắc chắn sẽ gia tăng trên Biển Đông, đặc biệt là khi các bên có yêu sách đều nâng cấp hải quân và lực lượng tuần tra bờ biển.

Cạnh tranh giữa các cường quốc

Năng lượng và nguồn cá không là những yếu tố duy nhất trong cuộc tranh chấp này. Biển Đông đang được đưa vào phạm vi cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ khi Trung Quốc tăng cường mở rộng chiến lược hải quân và triển khai các năng lực hải quân mới. ASEAN cho rằng những yêu sách bành trướng của Trung Quốc đến toàn bộ khu vực là có thể đàm phán được, rằng Trung Quốc sẽ chịu dàn xếp cho một hiệp định khu vực có các điều khoản thuận lợi, trong đó những tuyên bố chủ quyền sẽ được điều chỉnh, và nguồn lợi dầu khí cũng như ngư trường sẽ được chia sẻ. Dựa vào cơ sở này, ASEAN đã kéo Trung Quốc vào tham gia đối thoại thường xuyên với hy vọng thuyết phục các nhà cầm quyền Trung Quốc về giá trị của một cơ chế chuẩn tắc giúp điều chỉnh hành vi ở Biển Đông. ASEAN thường xuyên cẩn trọng trong việc tránh khiêu khích Trung Quốc và kỳ vọng Trung Quốc sẽ đáp lại kịp thời, và rằng phương cách ASEAN trong việc khuyến khích đồng thuận sẽ được Bắc Kinh chấp nhận một cách đúng lúc.

Nếu vấn đề chỉ liên quan đến những yêu sách cạnh tranh về năng lượng và ngư trường, thì một hiệp định chỉ rõ quy tắc tương tác và quản lý tranh chấp (gọi cách khác là một cơ chế hàng hải) rất có thể có khả năng trở thành hiện thực như các nhà hoạch định chính sách ASEAN đã lập luận. Tuy nhiên, cạnh tranh chiến lược với Hoa Kỳ đã định hình lại tranh chấp theo cách làm giảm vai trò của ASEAN và khả năng của họ trong việc đàm phán một giải pháp cho vấn đề với Trung Quốc. Điều đó làm Trung Quốc lãnh đạm với các ý tưởng của  ASEAN và trở nên quan ngại hơn về các động thái bên ngoài khu vực của Hoa Kỳ  cũng như các hoạt động hải quân của nước này. Điều này cũng dẫn đến việc Trung Quốc cư xử đặc biệt quyết liệt hơn bởi khả năng lớn hơn trong việc kiểm soát Biển Đông là một phần cần thiết cho sự triển khai và chiến lược tăng cường hải quân của nước này.

Chiến lược hải quân của Trung Quốc đã được định hình trong nhiều năm qua kể từ khi Tư lệnh Hải quân Liu Huaqing (1982-1988) lần đầu tiên kêu gọi hình thành một lực lượng hải quân viễn dương đủ sức bảo vệ quyền lợi hàng hải của Trung Quốc. Hơn hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã đều đặn phát triển sức mạnh hải quân, được nước này coi là cần thiết cho vị thế siêu cường. Khi Trung Quốc tăng sức mạnh kinh tế, lợi ích hàng hải của họ cũng mở rộng tương ứng (cùng với sức mạnh hải quân), đưa họ vào cuộc xung đột với Hoa Kỳ – cường quốc hải quân thống trị tại Tây Thái Bình Dương.

Sự bành trướng của hải quân Trung Quốc

Chiến lược hải quân Trung Quốc đề ra ba nhiệm vụ nhằm định hướng cho sự phát triển năng lực hải quân của họ. Thứ nhất là ngăn chặn Đài Loan tuyên bố độc lập đồng thời cản trở Hoa Kỳ ủng hộ Đài Loan bằng việc triển khai hải quân khi có các sự kiện xung đột. Nhiệm vụ này đã trở thành một điểm nổi bật của chiến lược hải quân Trung Quốc sau khi Hoa Kỳ điều động hai tàu sân bay trong suốt giai đoạn khủng hoảng ở eo biển Đài Loan năm 1995 và 1996, đó là chiếc Nimitz vào tháng 12 năm 1995 và chiếc Independence vào tháng 3 năm 1996, như một cách phô diễn sức mạnh hải quân mà người Trung Quốc chưa thể nào quên. Nhiệm vụ thứ hai là bảo vệ các tuyến giao thương mở rộng của Trung Quốc và các nguồn cung cấp năng lượng đang vận hành xuyên Ấn Độ Dương và eo biển Malacca, nơi ước tính chừng 80% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc được chuyên chở.24 Nhiệm vụ này đã trở nên quan trọng sau khi Trung Quốc trở thành một nước nhập khẩu ròng về dầu mỏ vào năm 1993 và khi Bắc Kinh nhận ra nền kinh tế của họ phụ thuộc vào dầu nhập khẩu đến thế nào vào cuối thập niên 1990. Nhiệm vụ thứ ba là triển khai năng lực đánh trả hạt nhân lần thứ hai từ mặt biển tại khu vực Tây Thái Bình Dương, một hệ quả khác của cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1995 -1996. Bắc Kinh hiểu rằng năng lực này sẽ là một sự răn đe tối hậu chống lại Hoa Kỳ trong các cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan cũng như các cuộc khủng hoảng khác.

Để thực hiện các sứ mệnh này, Trung Quốc đã phát triển hoặc triển khai bốn lớp tàu ngầm và sáu lớp tàu khu trục mới trong vòng hơn hai thập kỷ qua. Trung Quốc đã đặt mục tiêu phát triển lực lượng hải quân viễn dương, và như Đô đốc tư lệnh Hải quân Wu Shengli đã tuyên bố vào tháng 5 năm 2009, Trung Quốc sẽ thiết lập một “hệ thống phòng thủ trên biển” để “bảo vệ an ninh hàng hải và sự phát triển kinh tế”.25 Hải quân viễn dương cần có những tàu sân bay, và tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, chiếc Shi Lang, được xây dựng lại từ chiếc tàu sân bay thời Xô Viết trọng tải 32.000 tấn Varyag, đã được thử nghiệm trên biển từ ngày 10 đến ngày 14 tháng 8 năm 2011. Họ hy vọng nó sẽ đi vào hoạt động trong năm 2012 và sẽ mang theo 48 chiếc máy bay chiến đấu trên biển Su-33 và máy bay chiến đấu Trung Quốc Jian- 10 được điều chỉnh để phù hợp với hoạt động trên tàu sân bay. Trung Quốc được cho là sẽ xây dựng một chiếc tàu sân bay khác trọng tải 50.000 đến 60.000 tấn trước năm 2015 và một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân trước năm 2020.26 Các tàu sân bay đều đòi hỏi đội tàu hộ tống để cung cấp năng lực phòng không và ngăn chặn các cuộc tấn công từ tàu ngầm. Điều này chỉ ra rằng họ đã có kế hoạch mở rộng năng lực hải quân quy mô lớn.

Xét về lực lượng hạt nhân trên biển, Trung Quốc có bốn tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, hay gọi là SSBN. Chiếc tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo đầu tiên của Trung Quốc là tàu lớp Hạ (Xia) bây giờ đã lỗi thời, được hoàn thành vào năm 1981 và mang theo được 12 tên lửa đạn đạo JL – 1 (SLBM) có tầm bắn lên đến 2.700 km, không đủ để tấn công vào đất liền của Hoa Kỳ. Hai trong số những chiếc SSBN hiện đại và đáng tin cậy hơn thuộc lớp Tấn (Jin) đã được triển khai từ năm 2004, mỗi cái mang theo 12 tên lửa đạn đạo JL- 2 với tầm bắn lên đến 8.400 km, tạo cho chúng khả năng tấn công liên lục địa. Trung Quốc được cho là sẽ triển khai ít nhất 5 chiếc thuộc lớp Tấn trong những năm tới.27

Trung Quốc cần nơi trú ẩn cho các nền tảng hải quân của họ để chống lại những cuộc tấn công từ trên không và trên biển.28 Những chiếc tàu sân bay và tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo cũng đòi hỏi tiếp cận những vùng biển mở để hoàn thành sứ mệnh của mình; nếu không chúng có thể bị giam hãm vào một khu vực giới hạn và trở thành gần như là vô ích. Chỉ một vài nơi dọc theo bờ biển của Trung Quốc là có thể cung cấp chỗ trú ẩn cho hải quân của họ, nơi có thể tổ chức phòng ngự, đồng thời có thể dễ dàng tiếp cận vùng biển mở. Một là ở Hoàng Hải, nơi có căn cứ tàu ngầm đặt tại Xiaopingdao gần Đại Liên. Một nơi hợp lý khác là khu vực Hải Nam và khu vực nửa đóng của phía bắc Biển Đông, nơi có lợi thế gần với eo biển Malacca và các tuyến đường biển nối sang Ấn Độ Dương. Bất cứ vị trí nào khác xa hơn về phía Bắc sẽ có thể dễ bị tấn công ngăn chặn từ phía biển vào bởi Hoa Kỳ.

Vì lý do này, Trung Quốc đã và đang xây dựng căn cứ ngầm ở Tam Á trên đảo Hải Nam, nơi sẽ chứa không chỉ các tàu SSBN mà cả tàu sân bay cũng như đội tàu hộ tống khi chúng được triển khai.29 Năm 2008, một chiếc tàu ngầm SSBN lớp Tấn đã được triển khai ở đó, và tới tháng 10 năm 2010, hai tàu ngầm hạt nhân lớp Thương (Shang) đã vào bến ở Tam Á.30  Tàu sân bay Shi Lang cũng có thể sẽ được đóng ở đó. Khi Hải Nam phát triển trở thành căn cứ hải quân thì quần đảo Hoàng Sa ở phía nam đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp lá chắn bảo vệ đường không và đường biển cho Hải Nam. Điều đó giải thích vì sao Bắc Kinh rất nhạy cảm với các tàu khảo sát của Hoa Kỳ và tại sao 5 tàu hải quân Trung Quốc đã đụng độ với chiếc USNS Impeccable của Hoa Kỳ khi nó đi vào trong vùng biển cách đảo Hải Nam 121 km vào ngày 9 tháng 3 năm 2009.31

Bảo vệ Hải Nam là một chuyện, nhưng đảm bảo cho tàu sân bay và SSBN tiếp cận được vùng biển mở là một chuyện khác. Để làm được việc này, Trung Quốc cần phải kiểm soát được quần đảo Trường Sa, hoặc ít nhất họ cần có khả năng ngăn chặn các cường quốc bên ngoài can thiệp vào các hoạt động của hải quân Trung Quốc trong một khu vực mở rộng đến tận eo biển Malacca. Năm 2009, tướng Zhang Li, nguyên Phó tổng Tư lệnh Giải phóng quân Trung Quốc (PLA) đã kêu gọi xây một sân bay và một cảng biển tại bãi đá Vành Khăn trong khu vực Philipines tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Trường Sa mà hiện giờ đang do Trung Quốc chiếm. Ý định của họ là nhằm tiến hành các cuộc tuần tra trên không tại khu vực, để yểm trợ các tàu cá Trung Quốc, và để thể hiện chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.32 

Chính Liu Huaqing là người đưa ra các khái niệm phòng thủ khu vực cho Trung Quốc, tạo ra không gian hàng hải phòng vệ cho việc phát triển hải quân. Liu đã học được khái niệm phòng thủ khu vực từ Sergei Gorshkov, chỉ huy hải quân Liên Xô, và là người hướng dẫn của ông tại Học viện Hải quân Liên Xô khi ông du học ở đó những năm 1950. Dưới trướng Liu, chiến lược hải quân của Trung Quốc chuyển từ phòng thủ ngoài khơi hay phòng thủ bờ biển sang “phòng thủ biển gần”, bao trùm một khu vực rộng kéo dài tới “chuỗi đảo đầu tiên”. Vùng biển này trải dài suốt từ Nhật Bản đến quần đảo Ryukyu, đến Philipines rồi đến Biển Đông; chuỗi đảo thứ hai nằm xa hơn ngoài khơi Thái Bình Dương, trải dài từ Nhật Bản và bao gồm cả đảo Guam.33 Kể từ khi hình thành cách đây hai thập niên, khái niệm chuỗi đảo tiếp tục định hình tư duy hải quân Trung Quốc, đóng vai trò là một cách để xác định và phân ranh giới các khu vực lợi ích.34 Khái niệm chuỗi đảo đầu tiên bao gồm Đài Loan như là điểm then chốt và cả không gian biển bao quanh nó, cho phép phong tỏa bằng tàu ngầm trong trường hợp Đài Loan tuyên bố độc lập khỏi đại lục. Nó cũng bao gồm những vùng biển đủ lớn cho các tàu ngầm SSBN thường xuyên tuần tra và triển khai các điểm phóng tên lửa ở giữa đại dương.35

Nếu là một khái niệm phòng thủ khu vực, nó bao gồm cả Hoàng Hải lẫn Biển Đông như là những vị trí trú ẩn an toàn để đặt các căn cứ hải quân cũng như đường ra biển khơi an toàn. Tuy nhiên, phòng thủ khu vực đòi hỏi phải giữ chân Hải quân Hoa Kỳ từ xa và ở một khoảng cách đủ lớn để nó không thể can thiệp vào việc triển khai của hải quân Trung Quốc trong khu vực. Để đạt mục tiêu này, Trung Quốc đã triển khai DF-21D, được mô tả là một loại tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM) có khả năng nhắm đến các tàu sân bay Hoa Kỳ và các tàu mặt nước lớn khác.36 Đô đốc Robert F. Willard, tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, nói rằng khi kết hợp cùng tàu ngầm Trung Quốc, tên lửa này có thể gây ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với hải quân Mỹ, và cuối cùng có thể sẽ “vô hiệu hóa” năng lực triển khai sức mạnh của Hoa Kỳ.37 Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên bố rằng với khả năng định vị và truy đuổi mục tiêu hiệu quả, loại tên lửa này có thể đe dọa các tàu hải quân Mỹ trong tầm bắn từ 1.500 đến 2.100km.38

Phù hợp với các khái niệm phòng thủ khu vực này, Trung Quốc cũng kỳ vọng Hoa Kỳ công nhận các vùng ảnh hưởng riêng của mình ở Tây Thái Bình Dương, trong đó Đài Loan và Biển Đông phải chắc chắn nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong quan điểm của Trung Quốc, sự hiện diện của hải quân Hoa Kỳ ở vùng biển Tây Thái Bình Dương ngăn chặn việc Đài Loan thống nhất với đại lục và khuyến khích các nước ASEAN có yêu sách ở Biển Đông chống lại các yêu sách của Trung Quốc. Nếu có thể đạt tới một thỏa thuận nào đó theo cách này với một nước Mỹ đang suy yếu về kinh tế thì Trung Quốc quả thật sẽ trở thành siêu cường thống trị tại khu vực Tây Thái Bình Dương.

Phản ứng của Hoa Kỳ

Sự trấn an từ phía Trung Quốc

Tương lai

Chú thích

Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Bien Dong Buszynski.pdf - See more at: http://nghiencuuquocte.org/2013/06/27/bien-dong-buszynski/#sthash.x6GhijGk.dpuf

SÓNG NGẦM ĐỊA CHÍNH TRỊ KHU VỰC VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Trong năm 2014, sự kiện nổi bật nhất của ngành đối ngoại Việt Nam có lẽ chính là cuộc đấu tranh xung quanh sự kiện giàn khoan Hải Dương 981. Việc Trung Quốc cuối cùng phải rút giàn khoan ở một chừng mực nào đó có thể coi là một thành công đối với Việt Nam, nhưng đó cũng là một thách thức còn để ngỏ khi hàng loạt câu hỏi vẫn chưa có lời đáp: Liệu Trung Quốc có tái diễn vụ giàn khoan, nếu có thì ở đâu, và nếu không thì Trung Quốc sẽ có hành động gì trên Biển Đông? Quan trọng hơn, Việt Nam cần phải xử lý mối quan hệ với Trung Quốc ra sao trong bối cảnh rộng lớn hơn là các sóng ngầm địa chính trị khu vực đang diễn biến ngày càng phức tạp?

Bài phân tích này sẽ cố gắng trả lời các câu hỏi trên. Tuy nhiên, trước khi đi vào vấn đề chính là quan hệ Việt – Trung, chúng ta cần điểm lại một số nét chính trong tình hình các quốc gia chủ chốt cũng như bối cảnh địa-chính trị khu vực, những yếu tố vốn có tác động quan trọng tới cục diện quan hệ song phương.

Bối cảnh các quốc gia chủ chốt

Trung Quốc

Sau hơn 3 thập niên phát triển liên tục với tốc độ 2 con số, hiện nay tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang chững lại ở mức khoảng 7%/năm với nhiều khó khăn chồng chất như mô hình tăng trưởng cũ hết động lực, cơ cấu và xu hướng dân số bất lợi, các rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống tài chính – ngân hàng và thị trường nhà đất… Điều này đặt ra những thách thức lớn cho tính chính danh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

Một mặt, thực tế này yêu cầu Trung Quốc phải tiến hành cải cách cơ cấu nền kinh tế theo hướng từ bỏ mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu sang dựa trên tiêu dùng trong nước và sức sáng tạo của các doanh nghiệp, thể hiện qua các biện pháp đề ra tại Hội nghị TW 3 năm 2013. Mặt khác, Trung Quốc cũng tiến hành cuộc chiến chống tham nhũng mạnh mẽ, vừa giúp củng cố quyền lực của tân Chủ tịch Tập Cận Bình, vừa giúp loại bỏ các rào cản, các nhóm lợi ích gây cản trở cải cách kinh tế, đồng thời giúp nâng cao uy tín của Đảng trong bối cảnh trụ cột chính trong tính chính danh của Đảng là thành tích phát triển kinh tế đang gặp khó khăn.

Về đối ngoại, Trung Quốc đã thoát ra ngoài tư thế “giấu mình chờ thời”, bắt đầu công khai và mạnh mẽ cạnh tranh vị thế và ảnh hưởng với Hoa Kỳ trong khu vực và trên thế giới, thể hiện qua các sáng kiến như “con đường tơ lụa thế kỷ 21”, “con đường tơ lụa trên biển”, ý tưởng “châu Á là của người châu Á”, hay việc thành lập Ngân hàng Phát triển Mới với nhóm BRIC…

Trong quan hệ với Mỹ, Trung Quốc đề xướng mô hình “quan hệ cường quốc kiểu mới” nhằm thuyết phục Mỹ không “ngăn chặn” Trung Quốc vươn lên, vừa nhằm đạt được vị thế ngang hàng với Mỹ, qua đó phân chia khu vực ảnh hưởng với Washington. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tỏ ra hung hăng và cứng rắn hơn trong các tranh chấp biển và lãnh thổ với láng giềng, mà ví dụ tiêu biểu là vụ giàn khoan 981. Điều này vừa phù hợp với xu thế chung trong chính sách đối ngoại của chính quyền Tập Cận Bình, vừa có tác dụng giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc để củng cố sự ủng hộ của người dân trong bối cảnh tính chính danh trong nước của ĐCSTQ ngày càng bị thách thức.

Trong năm tới Trung Quốc có thể thực hiện “ngoại giao hòa hoãn” do e dè trước phản ứng của cộng đồng quốc tế sau vụ giàn khoan 981 và lo sợ các nước trong khu vực sẽ nghiêng về phía Mỹ, đi ngược lại mục tiêu lớn của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong dài hạn, với việc Trung Quốc từ bỏ chính sách “giấu mình chờ thời” để theo đuổi tham vọng siêu cường, kết hợp với khó khăn trong nước nhiều khả năng sẽ ngày càng nghiêm trọng, xu thế hung hăng, lấn lướt của Bắc Kinh trong chính sách đối ngoại, đặc biệt là trên vấn đề Biển Đông, nhiều khả năng sẽ còn tiếp diễn.

Nhật Bản

Sau khi quay lại làm thủ tướng năm 2012, ông Shinzo Abe đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế và chính trị quan trọng. Về kinh tế ông Abe đã tiến hành chính sách Abenomics, với ba “mũi tên” gồm kích thích tài khóa, nới lỏng tiền tệ và cải cách cơ cấu. Tuy nhiên sau khi phát huy hiệu quả vào năm 2013 với việc kinh tế Nhật tăng trưởng 1,5%, thì sang năm 2014 chính sách này đã bị “hụt hơi” khi nền kinh tế bị co lại 2%, trong đó một nguyên nhân chủ yếu được đánh giá là việc chính quyền Abe tăng thuế tiêu dùng quá sớm (vào tháng 4/2014) từ mức 5% lên 8%,[1] khiến lòng tin của người tiêu dùng sụt giảm, tác động tiêu cực tới phục hồi kinh tế.

Trong bối cảnh đó, ông Abe đã tuyên bố giải tán quốc hội vào tháng trước và tổ chức bầu cử sớm vào ngày 14/12 vừa qua. Kết quả Đảng Dân chủ Tự do (LDP) đã tiếp tục giành thắng lợi áp đảo,[2] qua đó giúp củng cố và kéo dài tuổi đời chính trị của ông Abe, giúp ông có nhiều thời gian hơn để tiếp tục thực hiện chính sách Abenomics cũng như các thay đổi về chính sách đối ngoại.

Về chính sách đối ngoại, điểm tiêu biểu trong thời gian qua là chính quyền Abe đã diễn dịch lại hiến pháp để cho phép quân đội Nhật có vai trò lớn hơn. Cụ thể hiến pháp Nhật sau khi được diễn dịch lại đã cho phép Nhật tham gia phòng thủ tập thể ở những nơi lợi ích của Nhật bị đe dọa, đồng thời mở đường cho quân đội Nhật đóng vai trò quốc tế lớn hơn (nhất là trong sứ mệnh hỗ trợ nhân đạo).

Ngoài ra, mặc dù Nhật tiếp tục đề cao hợp tác quân sự với Mỹ thông qua liên minh Mỹ – Nhật, nhưng chính quyền Abe muốn tự chủ lớn hơn và bớt phụ thuộc hơn vào Mỹ về quốc phòng. Dưới thời Abe, Nhật cũng thể hiện xu hướng cứng rắn hơn với Trung Quốc, như quốc hữu hóa quần đảo Senkaku, phản đối và tảng lờ Khu vực nhận diện phòng không (ADIZ) của Trung Quốc thiết lập trên biển Hoa Đông… Nhật cũng tích cực hỗ trợ Philippines và Việt Nam về ngoại giao và an ninh, trong đó tiêu biểu là viện trợ các tàu tuần tra cho Hà Nội và Manila. Dù quy mô viện trợ còn hạn chế do bản thân Nhật cũng đang cần các nguồn lực để đối phó với Trung Quốc trên biển Hoa Đông, nhưng nó cho thấy xu thế ngày càng cứng rắn của Nhật đối với Trung Quốc.

Nay với việc Abe tiếp tục khởi đầu một nhiệm kỳ mới, các chính sách đối ngoại và an ninh mạnh mẽ của ông sẽ hầu như chắc chắn được duy trì và thúc đẩy, đưa Nhật tái trỗi dậy thành một cường quốc “bình thường” với sức ảnh hưởng đồng thời cả về kinh tế lẫn quân sự trong khu vực và trên thế giới.

Nga

Sau khi phạm sai lầm vì đã vội vàng sáp nhập Crimea, nước Nga của Putin đã phải vật lộn trong khó khăn để đương đầu với các lệnh trừng phạt của phương Tây, bên cạnh các khó khăn kinh tế chồng chất do giá dầu thế giới giảm và tình trạng rớt giá của đồng Rúp.

Ngoài ra, do bị phương Tây cô lập nên Nga đã tìm cách thắt chặt quan hệ với Trung Quốc, dẫn tới một số lo ngại rằng Trục Bắc Kinh – Moscow sẽ được hình thành nhằm giúp 2 nước đối phó với các áp lực từ Mỹ và phương Tây. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích, bao gồm cả các quan chức Mỹ, đều cho rằng giữa hai nước vẫn còn những khác biệt lớn về sự quan tâm, mục tiêu, lợi ích… nên sự gần gũi gia tăng giữa hai nước thời gian qua chủ yếu mang tính chiến thuật chứ không phải là một liên minh chiến lược lâu dài.

Trong bối cảnh đó, mối bận tâm chính của chính quyền Putin trong thời gian qua cũng như sắp tới chủ yếu là vấn đề Ukraine và quan hệ với phương Tây chứ không phải khu vực Thái Bình Dương. Cụ thể, trước áp lực của phương Tây, khó khăn kinh tế chồng chất và nhất là địa vị “thân cô thế cô”, Nga nhiều khả năng sẽ phải nhún nhường, tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Đông Ukraine và Crimea để dần dần bình thường hóa quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên điều này sẽ không đến sớm nếu Tổng thống Putin tiếp tục cầm quyền. Vì vậy, xu hướng chính sách đối ngoại Nga trong thời gian tới sẽ phụ thuộc vào diễn biến chính trị trong nước của Nga, đặc biệt là vị thế của Tổng thống Putin.

Hoa Kỳ

Trái với các quan điểm bi quan cho rằng Mỹ đang trượt dài vào thời kỳ suy thoái, sức mạnh kinh tế và quyền lực quốc gia nói chung của Hoa Kỳ vẫn được duy trì và thúc đẩy. Cụ thể, mặc dù một vài ước tính cho rằng GDP tính theo sức mua tương đương (PPP) của Trung Quốc đã vượt Mỹ trong năm nay, ưu thế về sức năng động – sáng tạo, trình độ công nghệ, sự áp đảo của các công ty đa quốc gia, sự vượt trội về GDP tính theo đầu người… về cơ bản vẫn giúp cho Hoa Kỳ duy trì được khoảng cách xa về kinh tế so với Trung Quốc.

Trong khi triển vọng kinh tế Trung Quốc bắt đầu có dấu hiệu ảm đạm, thì kinh tế Mỹ vẫn tăng trưởng 2,3% năm 2012, 2,2% năm 2013, và dự kiến đạt 2,5% năm 2014, trong khi tỉ lệ thất nghiệp tới tháng 10/2014 đã giảm xuống chỉ còn 5,8%, mức thấp nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và thấp hơn đáng kể so với hầu hết các nước công nghiệp phát triển.

Một đặc điểm nổi bật của kinh tế Mỹ được nhiều người đánh giá cao trong thời gian gần đây là việc ngành sản xuất dầu lửa của nước này đã phát triển mạnh nhờ vào công nghệ khai thác dầu đá phiến (shale). Cụ thể, chỉ trong vòng năm năm, công nghệ này đã đưa sản lượng dầu của Mỹ tăng gần gấp đôi từ mức 5 triệu thùng/ngày năm 2008 lên 9 triệu  thùng vào năm nay.

Nếu xu hướng này tiếp tục thì đến khoảng năm 2020 Mỹ có thể vượt Arab Saudi trở thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới. Việc ngành sản xuất dầu phát triển mạnh không chỉ mang lại sự thịnh vượng và tạo công ăn việc làm cho người Mỹ mà còn mang lại cho Mỹ một vũ khí địa chính trị lợi hại, đặc biệt là giúp Mỹ có thể giảm bớt sự chú ý vào khu vực rốn dầu Trung Đông để tập trung vào các khu vực khác.

Về đối ngoại và quân sự, Hoa Kỳ đang giảm dần sự can dự vào khu vực Trung Đông, một phần do sự “mệt mỏi chiến lược” vì những can dự kéo dài nhưng kém hiệu quả ở khu vực này kể từ sau sự kiện 11/9/2001, một phần do tầm quan trọng chiến lược của khu vực có xu hướng giảm sút trong mắt Washington.

Trong khi vẫn phối hợp với EU và các đồng minh trong các vấn đề như Ukraine hay không kích Nhà nước Hồi giáo, Mỹ sẽ tập trung nhiều sự chú ý hơn vào khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc, bởi chính Trung Quốc sẽ là vấn đề “sống còn”, là đối thủ duy nhất đủ tầm để có thể lật đổ vị thế siêu cường của Mỹ cũng như trật tự thế giới mà Mỹ dẫn dắt. Trong bối cảnh đó, Mỹ sẽ tiếp tục duy trì chính sách “tái cân bằng” sang khu vực, đồng thời thúc đẩy việc gắn kết, tăng cường sức mạnh của các nước đồng minh và đối tác, biến họ trở thành các quốc gia giàu mạnh và thực sự độc lập để có thể giúp hạn chế bớt ảnh hưởng của Trung Quốc, đồng thời giúp Mỹ có được vị thế tốt hơn nhằm đối phó với sự trỗi dậy ngày càng không êm ả của Bắc Kinh.

Xu hướng địa chính trị khu vực  

Một xu hướng địa chính trị khu vực đang ngày càng trở nên nổi trội, đó chính là việc Mỹ cùng các đồng minh ngày càng bất an trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và việc nước này công khai thách thức trật tự khu vực, nhất là vị thế siêu cường dẫn đầu của Mỹ. Xu hướng này khiến cho khu vực nhiều khả năng sẽ bước vào một cuộc Chiến tranh Lạnh mới trong vòng khoảng 20 năm tới.

Về mặt lý thuyết, nếu Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy và thách thức Mỹ, mâu thuẫn và xung đột giữa hai cường quốc là không thể tránh khỏi. Trái với thuyết “cân bằng quyền lực” (balance of power theory) cho rằng hệ thống quốc tế sẽ ổn định và hòa bình khi đạt được sự cân bằng giữa các trung tâm quyền lực chính, thuyết “chuyển giao quyền lực” (power transition theory) cho rằng một khi một cường quốc đang lên tiệm cận sức mạnh của cường quốc thống trị và khao khát giành vị thế bá chủ của cường quốc đó thì xung đột giữa hai bên là không thể tránh khỏi. Chỉ sau khi cường quốc đang lên bị kiềm chế hoặc đánh bại (giữ vững nguyên trạng) hoặc cường quốc bá chủ bị lật đổ (thiết lập nguyên trạng mới) thì hệ thống quốc tế mới lại đạt được thế cân bằng và ổn định. Quy luật này đã được chứng minh nhiều lần trong lịch sử, và sẽ tiếp tục là logic trường tồn của chính trị hiện thực trong quan hệ quốc tế.

Về mặt thực tế, hiện nay cục diện địa chính trị khu vực đang dần đi theo hướng dự báo của thuyết “chuyển giao quyền lực”. Cụ thể, trong khi Trung Quốc (cường quốc đang lên) tìm cách mở rộng ảnh hưởng, tranh giành quyền lực với Mỹ (cường quốc thống trị), thì Mỹ đang âm thầm cố gắng tìm cách kiềm chế Trung Quốc, thông qua các chiến lược tiêu biểu như “tái cân bằng” quân sự sang tây Thái Bình Dương, đàm phán Hiệp định TPP với các nước trong khu vực mà không có sự tham gia của Trung Quốc; cải thiện và thắt chặt quan hệ với các nước đồng minh và đối tác, nhất là các nước láng giềng Trung Quốc; sử dụng các công cụ như luật pháp quốc tế và các thể chế quốc tế để kiềm chế và điều chỉnh hành vi của Bắc Kinh….

Hiện nay, giới chức Mỹ vẫn đang cố gắng thận trọng, tránh “tư duy Chiến tranh lạnh”, trong khi cố gắng can dự với Trung Quốc để xây dựng lòng tin, giảm căng thẳng. Tuy nhiên đây không phải là xu hướng lâu dài mà chỉ là ngắn hạn. Trước mắt Mỹ chưa sẵn lòng mạnh tay kiềm chế Trung Quốc như từng kiềm chế Liên Xô trước đây bởi quan hệ tốt với Trung Quốc đang mang lại cho Mỹ nhiều lợi ích, đồng thời Mỹ cần thêm thời gian để đánh giá xu hướng hành vi của Trung Quốc khi hiện nay Bắc Kinh dù có biểu hiện hung hăng và thách thức lợi ích của Mỹ nhưng sự thách thức đó chưa đủ lớn để đe dọa các lợi ích sống còn, nhất là vị thế bá chủ của Mỹ.

Vì vậy trong tương lai, mức độ kiềm chế của Mỹ và đồng minh đối với Trung Quốc sẽ biến chuyển tùy theo mức độ hung hăng và thách thức mà Trung Quốc theo đuổi trong chính sách đối ngoại của mình. Ngoài ra, về phía Mỹ, nếu trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016 một ứng cử viên Cộng hòa đắc cử thì nhiều khả năng Mỹ sẽ có một chính sách đối ngoại cứng rắn hơn, nhất là trong quan hệ với Trung Quốc.

Mặc dù có một khả năng là Trung Quốc do các vấn đề trong nước sẽ bị chững lại, thậm chí rối loại và suy yếu, không thể đủ sức “trỗi dậy” mãi mãi đủ để đe dọa vị thế của Mỹ, nhưng khả năng cao hơn là Trung Quốc sẽ tiếp tục vươn lên, dù chậm dù nhanh, để làm cho Mỹ và đồng minh cảm thấy bất an, lo sợ. Khi đó, một cuộc Chiến tranh lạnh Mới ở khu vực, như đã nói trên, là khó có thể tránh khỏi. Cuộc Chiến tranh lạnh Mới giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ khác với cuộc Chiến tranh lạnh thế kỷ 20 giữa Mỹ và Liên Xô ở 4 điểm chính:

- Chiến lược chứ không phải ý thức hệ: Cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc chủ yếu tập trung vào yếu tố lợi ích chiến lược chứ không phải ý thức hệ. Việc tập hợp lực lượng của hai bên sẽ dựa vào điểm đồng về lợi ích chiến lược chứ không phải ý thức hệ. Đây là đặc điểm chi phối 3 đặc điểm còn lại.
- Ở cấp độ khu vực chứ không phải toàn cầu: Cuộc Chiến tranh lạnh này sẽ tập trung chủ yếu tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương mà ít có khả năng lan rộng ra toàn cầu bởi Trung Quốc không có một hệ thống đồng minh rộng lớn và lợi ích của Mỹ và Trung Quốc không mâu thuẫn lớn ở các khu vực khác.
- Không phải giữa 2 khối nước cứng nhắc: Khác với Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô khi hai bên dẫn đầu hai khối nước trải khắp 5 châu thì trong Chiến tranh lạnh mới sự đối đầu tập trung chủ yếu vào quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ. Nga, như đã nói ở trên, ít có khả năng tham gia cùng Trung Quốc thành một khối chiến lược để đối đầu với Mỹ và đồng minh.
- Vai trò của tương thuộc kinh tế: Khác với Chiến tranh lạnh thế kỷ 20, trong cuộc Chiến tranh lạnh mới, sự tương thuộc kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ giúp kiềm chế bớt hành vi của hai bên, giúp hai bên dễ đối thoại với nhau để giải quyết bất đồng. Tuy nhiên do lợi ích địa chính trị được coi trọng hơn lợi ích kinh tế nên sự tương thuộc kinh tế sẽ không đủ ngăn cản Chiến tranh lạnh mới diễn ra. Viễn cảnh khả dĩ nhất là “kinh tế nóng, chính trị lạnh” giữa các cường quốc.

Vậy xu hướng địa chính trị khu vực này sẽ tác động như thế nào tới Việt Nam, và Việt Nam cần phải ứng phó ra sao?

Lựa chọn chiến lược của Việt Nam

“Lời nguyền địa lý” khiến Việt Nam luôn phải đối diện với những thách thức trong xử lý quan hệ với Trung Quốc. Trước một Trung Quốc lớn mạnh hơn nhiều lần, chiến lược Trung Quốc truyền thống của Việt Nam là ngoại giao hòa hiếu, trong đế ngoài vương, nhún nhường với Trung Quốc trong khả năng cho phép để giữ hòa bình và độc lập.

Nếu không có tranh chấp Biển Đông thì Việt Nam hiện nay sẽ có điều kiện thuận lợi hơn nhiều để duy trì một chính sách hòa hiếu cùng mối quan hệ ổn định, tương kính với Trung Quốc. Thế nhưng, với việc Trung Quốc ngày càng thực hiện các chính sách hung hăng và cưỡng ép, mà sự kiện Giàn khoan 981 là ví dụ điển hình, việc duy trì một chính sách ngoại giao hòa hiếu truyền thống như vậy với Trung Quốc đang ngày càng khó khăn, thậm chí phản tác dụng.

Chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc hiện đối mặt với hai lựa chọn căn bản: ưu tiên quan hệ hữu hảo với Trung Quốc hay ưu tiên chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ?

Trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, lựa chọn này luôn được đặt ra cho các nhà cầm quyền Việt Nam, và câu trả lời luôn rõ ràng: Chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là lợi ích quốc gia tối thượng. Đã có những lúc Việt Nam tỏ ra hòa hiếu, nhún nhường với Trung Quốc, nhưng đó là khi Trung Quốc không trực tiếp đe dọa chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, hoặc sau khi Việt Nam đã đánh bại các cuộc xâm lược của các đội quân phương Bắc (ví dụ, Lê Lợi cấp thuyền và ngựa cho lính nhà Minh rút quân về nước, Nguyễn Huệ cho chôn cất tử tế lính nhà Thanh tử trận, gửi sứ thần sang nhận sắc phong và “tạ tội” với hoàng đế nhà Thanh…). Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại nhún nhường, mềm yếu trước Trung Quốc khi Trung Quốc tìm cách xâm lược hoặc cưỡng ép, đe dọa… Việt Nam.

Hiện nay, đương nhiên chúng ta vẫn luôn coi chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là lợi ích tối thượng. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần xác định Trung Quốc đang đe dọa Việt Nam đến mức nào để quyết định nên hòa hiếu, nhún nhường, hay cứng rắn với Trung Quốc. Nếu mối đe dọa Trung Quốc chưa lớn mà chúng ta quá cứng rắn thì sẽ gây căng thẳng không cần thiết, ngược lại nếu mối đe dọa lớn mà chúng ta nhún nhường, mềm yếu sẽ càng khuyến khích Trung Quốc lấn tới, làm phương hại lợi ích quốc gia.

Trong thời gian qua, xu hướng mối đe dọa từ Trung Quốc đang gia tăng là rõ ràng. Đặc biệt trong vấn đề Biển Đông, một loạt các hành động của Trung Quốc từ năm 2007 đến nay càng cho thấy rõ tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Các hành động như cắt cáp tàu Bình Minh 02, đưa giàn khoan 981 cùng lực lượng hộ tống hùng hổ vào vùng biển Việt Nam, xây dựng và mở rộng đảo nhân tạo… cho thấy cường độ hung hăng của Trung Quốc ngày càng tăng, và chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên Biển Đông đang bị đe dọa hơn bao giờ hết.

Trong tương lai gần, việc Trung Quốc đưa các giàn khoan xuống Trường Sa và bãi Tư Chính, thiết lập ADIZ trên Biển Đông, tăng cường quân sự hóa các điểm chiếm đóng, thậm chí tìm cách khống chế các tuyến đường biển của Việt Nam hay xâm lược các đảo của Việt Nam đang nắm giữ… là những khả năng không thể bị loại bỏ, nếu không muốn nói đó chỉ là vấn đề thời gian.

Trong bối cảnh đó, ngoài việc nâng cao nội lực về kinh tế, quốc phòng, xây dựng sự đoàn kết và đồng thuận trong cũng như ngoài nước, Việt Nam cần tranh thủ tận dụng các diễn biến địa chính trị khu vực để nâng cao vị thế chiến lược của mình, góp phần kiềm chế tham vọng của Trung Quốc. Đặc biệt việc mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc đang dần gia tăng đang tạo cơ hội cho Việt Nam tăng cường quan hệ với Mỹ và các nước đồng minh và đối tác của Mỹ, nhất là những nước có chung nhận thức về mối đe dọa và lợi ích trên Biển Đông.

Vì vậy, như tác giả bài viết từng đề xuất, trong khi vẫn duy trì nguyên tắc “ba không” trên danh nghĩa, Việt Nam cần từng bước thắt chặt quan hệ chiến lược – an ninh với các quốc gia chủ chốt trong khu vực dưới dạng các “liên minh” mềm, không chính thức, đặc biệt là với Hoa Kỳ và Nhật Bản, để có thể nâng cao vị thế chiến lược của mình trong quan hệ với Trung Quốc, nhất là trên hồ sơ Biển Đông.

Như đã lập luận trước đây, tranh chấp Biển Đông hiện tại gồm ba tầng nấc, với tầng nấc ngoài cùng đang trở nên ngày càng quan trọng là sự cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Điều này biến Biển Đông trở thành một trong những “chiến trường” cho sự đối đầu giữa hai cường quốc. Một câu hỏi đặt ra là trong bối cảnh đó, Việt Nam có nên can dự vào cuộc đối đầu này để rồi trở thành “nạn nhân” của một cuộc đấu đá giữa các cường quốc hay không?

Một điều chúng ta phải chấp nhận đối mặt là với vị trí địa lý của mình, đặc biệt là do sự tham gia của chúng ta vào tranh chấp Biển Đông với các lợi ích đan xen, chồng chéo, chúng ta không thể và không nên đứng ngoài các diễn biến địa chính trị khu vực. Nói cách khác, làm sao để Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi cuộc đối đầu đang tăng cường giữa Mỹ và Trung Quốc là một nhiệm vụ bất khả thi. Điều chúng ta có thể làm chỉ là làm sao hạn chế được tối đa các tác động tiêu cực của cuộc đối đầu này lên chúng ta mà thôi.

Để làm được điều này, không có cách nào khả dĩ hơn việc chúng ta chủ động can dự vào các diễn biến địa chính trị khu vực, góp phần định hình các diễn biến đó (nếu có thể), hoặc ít nhất nắm bắt được các thông tin, diễn biến, can dự vào ý đồ của các cường quốc để không phải trở thành kẻ ngoài lề, bị động đối phó, và rốt cuộc sẽ trở thành “nạn nhân” bị đem ra mặc cả trong ván cờ giữa các nước lớn như đã từng xảy ra trong lịch sử.

Hiện tại, trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam có hai vũ khí quan trọng có thể khiến Trung Quốc e sợ, đó là các lựa chọn pháp lý và việc theo đuổi chính trị liên minh. Tuy nhiên, trong khi phát súng pháp lý chưa thật sự sẵn sàng và một khi bắn ra sẽ không thể thu hồi lại, thì theo đuổi chính trị liên minh là một biện pháp linh hoạt và hiệu quả hơn mà Việt Nam có thể thực hiện để răn đe Trung Quốc.

Thứ nhất, biện pháp này đánh vào tâm lý sợ bị bao vây, “ngăn chặn” của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ không bao giờ muốn Việt Nam ngã vào tay một cường quốc đối địch, vì vậy nếu Việt Nam dịch chuyển theo hướng chính trị liên minh thì Trung Quốc sẽ phải cân nhắc trong hành động để không đẩy Việt Nam ra quá xa.

Thứ hai, chính trị liên minh không phải là một con đường một chiều. Cách dễ nhất để hình dung chính trị liên minh là một đường trục với hai thái cực đối diện, một thái cực (-1) là phù thịnh (bandwagoning), đi theo đối thủ, và thái cực còn lại (+1) là tham gia liên minh quân sự để cân bằng (balancing) lại đối thủ. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam lý tưởng nhất là ở vị trí cân bằng (0), tuy nhiên tùy theo diễn biến quan hệ song phương và bối cảnh khu vực, chúng ta có thể điều chỉnh vị trí của mình trong khoảng từ -1 đến +1 cho phù hợp. Ví dụ, nếu Trung Quốc hung hăng, hiếu chiến, Việt Nam có thể điều chỉnh dần sang vị trí  +1, nhưng nếu Trung Quốc ôn hòa, xuống nước, Việt Nam có thể điều chỉnh dần về vị trí số 0. Như vậy chúng ta không nên lo sợ phá vỡ quan hệ với Trung Quốc vì chúng ta có thể điều chỉnh tùy theo tình hình. Điều chúng ta phải lo sợ hơn là mất lãnh thổ, thứ một khi đã rơi vào tay người khác sẽ khó có thể đòi lại được.

Thứ ba, do có sự linh hoạt như trên, nên Việt Nam nếu khéo léo có thể điều chỉnh từng bước đi trong chính trị liên minh để đáp lại các hành động của Trung Quốc. Trước mắt, nếu Trung Quốc tiếp tục đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, chúng ta có thể áp dụng lại chiến thuật như vừa qua, kiềm chế và kiên nhẫn đấu tranh để Trung Quốc rút, phục hồi nguyên trạng. Tuy nhiên nếu Trung Quốc lặp đi lặp lại hoặc leo thang, ví dụ không rút giàn khoan, đưa giàn khoan xuống khu vực Trường Sa/ Tư Chính, thiết lập ADIZ trên Biển Đông, hay thậm chí xâm lược các vị trí Việt Nam đang nắm giữ, thì Việt Nam cần ứng phó ra sao? Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần phải có các bước chuẩn bị để khi Trung Quốc đi một nước cờ thì Việt Nam có thể đi được một nước tương ứng để đáp lại, tránh tình trạng Trung Quốc leo thang nhưng Việt Nam chỉ có một bài để đấu tranh. Với các nấc thang khác nhau như đã kể trên, chính trị liên minh giúp Việt Nam dự liệu trước các quân bài khác nhau để đối phó với Trung Quốc, bên cạnh chuyện đấu tranh trên thực địa.

Như vậy, trước bối cảnh Trung Quốc ngày càng có các hành động hung hăng mang  tính cưỡng bức trên Biển Đông, Việt Nam cần tận dụng các biến đổi địa chính trị khu vực để giành thế chiến lược có lợi cho mình. Trước mắt, Việt Nam cần thực hiện một số các biện pháp như cảnh báo Trung Quốc về hậu quả chiến lược nếu  tiếp tục có cách hành động cưỡng bức hoặc leo thang tranh chấp; làm việc cùng các quốc gia đối tác quan trọng (đặc biệt là Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Philippines) để lập kế hoạch tăng cường các mối quan hệ song phương, nhất là trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng, đồng thời lập kế hoạch các bước đi và nấc thang tiếp theo mà Việt Nam cần thực hiện để đáp lại các hành động gây hấn mới hoặc leo thang tranh chấp trên Biển Đông của Trung Quốc.

Tóm lại, Việt Nam chỉ có thể hòa hiếu với Trung Quốc nếu Trung Quốc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nếu Trung Quốc dùng bạo quyền để cưỡng bức thì chúng ta không thể mềm yếu để rồi mãi mãi đánh mất chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ vì một thứ “hữu nghị viễn vông”.

Trong khi tìm mọi cách cố gắng duy trì quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tương kính với Trung Quốc, chúng ta cũng nên sẵn sàng theo đuổi các mối quan hệ liên minh với các đối tác ở các lĩnh vực và mức độ khác nhau để đối phó với các mối đe dọa trên Biển Đông. Theo nghĩa đó, liên minh không nên được hiểu là đi với nước này để chống nước kia, mà là đi với nước nào để chúng ta có thể bảo vệ được tốt nhất lợi ích quốc gia của mình.

Lê Hồng Hiệp, vừa hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra, là giảng viên tại Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học KHXH&NV TPHCM, và là biên tập viên sáng lập và điều hành trang mạng Nghiencuuquocte.net.

Bài liên quan:

Việt Nam theo đuổi liên minh đối phó Trung Quốc: Tại sao và nên như thế nào?
Đưa quan hệ Việt – Mỹ bước vào kỷ nguyên mới
Việt Nam giữa hai bờ Trung – Mỹ
Việt Nam giữa ba tầng tranh chấp Biển Đông
Việt Nam trong cuộc chơi quyền lực Mỹ – Trung
Việt Nam và “lời nguyền địa lý”
—————

[1] Việc tăng thuế tiêu dùng (có tác động giảm phát) dựa trên cơ sở rằng trước đó hai mũi tên mở rộng tài khóa và nới lỏng tiền tệ (có tác dụng gây lạm phát) đã được thực hiện, nên sẽ không gây ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế. Ngoài nguyên nhân chính là tăng thuế tiêu dùng thì các vấn đề như cải cách cơ cấu chậm có tác dụng, đồng yen yếu làm tăng chi phí nhập khẩu đầu vào sản xuất và cơ cấu dân số bất lợi đều tác động tiêu cực tới kinh tế Nhật trong năm 2014.

[2] Hầu như chắc chắn liên minh giữa LDP và Đảng Công minh (Komeito) sẽ tiếp tục. Trong bầu cử, LDP giành 291 ghế, Keomeito giành 35 ghế, tổng cộng là 326/475 (68,63%) ghế.

- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2014/12/28/song-ngam-dia-chinh-tri-khu-vuc-va-lua-chon-cua-viet-nam/#sthash.pTleDAvX.dpuf



VIỆT NAM GIỮA HAI BỜ TRUNG - MỸ

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Một trong những thành tựu lớn nhất của Việt Nam trong những năm 1990 là việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991) và Mỹ (1995).

Việc bình thường hóa với Trung Quốc giúp Việt Nam bước đầu phá thế bị bao vây cô lập, cho phép Việt Nam cải thiện quan hệ với ASEAN và Mỹ. Trong khi đó, việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ giúp Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các cường quốc trên thế giới.

Ngoài ra, các sự kiện trên cũng giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập quốc tế, góp phần đưa Việt Nam gia nhập vào một loạt các tổ chức và diễn đàn quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, WTO, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), và gần đây nhất là các vòng đàm phán về Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi Việt Nam cũng gặp phải một thách thức không nhỏ: làm sao duy trì được sự cân bằng giữa hai siêu cường vốn đang ngày càng có xu hướng mâu thuẫn nhau?

Quan hệ Việt – Trung

Đây là một thách thức không mới đối với Việt Nam. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, sau khi Trung Quốc và Liên Xô chia rẽ, việc Việt Nam không duy trì được cân bằng trong quan hệ với hai cường quốc này đã góp phần dẫn tới sự lao dốc của quan hệ Việt – Trung trong những năm 1970, trong đó đỉnh cao là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 cùng tình trạng thù địch giữa hai nước trong thập niên 1980.

Những kinh nghiệm cay đắng đó vẫn còn dư vị, và Việt Nam hẳn nhiên không muốn lịch sử lặp lại. Vì vậy Việt Nam coi quan hệ hệ hòa bình và ổn định với Trung Quốc là một trong những ưu tiên đối ngoại hàng đầu của mình. Bên cạnh việc duy trì một môi trường khu vực hòa bình có lợi cho phát triển trong nước, còn có một số lí do khác khiến các nhà hoạch định chính sách Việt Nam muốn bảo vệ quan hệ với Trung Quốc.

Trước hết, Trung Quốc là một đồng minh ý thức hệ thân cận của Việt Nam. Đầu những năm 1990, khi chủ nghĩa cộng sản rơi vào thoái trào, ý thức hệ là một yếu tố góp phần dẫn tới sự bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ngày nay, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là hai đảng cộng sản lớn duy nhất còn cầm quyền trên thế giới, và hai đảng tin rằng sự hỗ trợ lẫn nhau sẽ giúp họ duy trì được quyền lực của mình.

Hai đảng đã có những biện pháp cụ thể hướng tới mục tiêu này. Ví dụ, hai đảng đã tổ chức các cuộc hội thảo thường niên nhằm thảo luận các chủ đề tư tưởng và trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề như xây dựng đảng, dân vận, hay ngăn chặn “diễn biến hòa bình”. ĐCSVN nhận thấy sự cầm quyền nếu được duy trì của ĐCSTQ không chỉ mang lại cho mình một nguồn chính danh từ bên ngoài mà còn là một sự hỗ trợ đối với an ninh của chế độ. Trong trường hợp ĐCSTQ sụp đổ, ĐCSVN sẽ gặp những thách thức vô cùng lớn trong việc duy trì quyền lực của mình ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai nước cũng ngày càng gia tăng. Kể từ năm 2004 Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2010, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 27 tỉ đô la Mỹ, chiếm 17% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam trong năm. Vì vậy, bất chấp những vấn đề có thể gây căng thẳng trong quan hệ hai nước, đặc biệt là tình trạng thâm hụt thương mại kinh niên của Việt Nam, Việt Nam vẫn coi quan hệ kinh tế song phương là có lợi và hữu ích cho mối quan hệ hòa bình và hợp tác giữa hai nước.

Tuy nhiên, những căng thẳng gia tăng gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc đang đe dọa xóa bỏ những cải thiện trong quan hệ hai nước đã đạt được trong hơn hai thập kỷ qua. Sự căng thẳng này xuất phát từ nhiều yếu tố. Một mặt, sự trỗi dậy và quy mô hiện đại hóa quân đội vô tiền khoáng hậu của Trung Quốc đã làm sống dậy sự lo sợ của Việt Nam đối với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.

Trước đây ít ai nghĩ có một ngày Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lại được đón tiếp nồng hậu ở Hà Nội

Mặt khác, các tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước trong Biển Đông càng làm nỗi lo sợ này của Việt Nam trở nên sâu sắc hơn. Trong khi không muốn thù địch với Trung Quốc, Việt Nam cũng không thể hi sinh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ để làm đẹp lòng Bắc Kinh. Chính vì thế, Việt Nam đã và đang tìm cách kết nối với các cường quốc bên ngoài để có thể ít nhất là răn đe, ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc trên Biển Đông, và xa hơn là giúp cân bằng với sức mạnh vượt trội của nước này trên bình diện khu vực.

Quan hệ Việt – Mỹ

Trong bối cảnh đó, Mỹ rõ ràng là một đối tác được ưa thích của Việt Nam. Sau khi hai cựu thù bình thường hóa quan hệ năm 1995, quan hệ song phương đã tiến triển nhanh chóng tới mức đã có những lời kêu gọi từ hai phía nâng cấp quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược.

Quan hệ kinh tế đã được tăng cường làm nền tảng vững chắc cho hợp tác song phương. Sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực năm 2001, kim ngạch thương mại song phương đã tăng hơn 12 lần trong vòng chỉ 10 năm, đạt 21,8 tỉ đô la Mỹ năm 2011. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Bên cạnh đó, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam cũng gia tăng trong những năm gần đây, biến Mỹ trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam trong năm 2010. Quyết định của Việt Nam tham gia vào đàm phán TPP cũng cho thấy độ chín ngày càng tăng của quan hệ song phương cũng như mong muốn của Việt Nam thúc đẩy quan hệ với cựu thù, không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn vì các lí do chiến lược.

Bên cạnh quan hệ kinh tế gia tăng, quan hệ chính trị giữa hai nước cũng làm bất ngờ nhiều nhà quan sát. Trong thập kỷ qua, hai nước đã trao đổi nhiều chuyến viếng thăm cấp cao. Các mối quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn cũng đã không ngừng được tăng cường. Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như sự hung hăng ngày càng tăng của nước này trong tranh chấp Biển Đông rõ ràng là những yếu tố cơ bản trong nỗ lực của Việt Nam nhằm xích lại gần hơn với Mỹ.

Nhiệm vụ này dường như đã được tiếp sức bởi quyết định gần đây của Mỹ trong việc tăng cường vai trò và sự hiện diện ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Bên lề hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hawaii tháng 11/2011, Ngoại trưởng Clinton đã tuyên bố Mỹ coi trọng và mong muốn thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, trong đó có việc nâng tầm quan hệ, hướng tới đối tác chiến lược.

Dù sự xích lại gần nhau giữa hai cựu thù là thật sự ấn tượng, vẫn còn đó những trở ngại mà hai nước phải vượt qua nếu muốn đưa quan hệ song phương tiến lên phía trước. Rào cản lớn nhất có lẽ chính là sự khác biệt giữa hệ thống chính trị hai nước và nhận thức khác nhau về các giá trị như dân chủ và nhân quyền.

Trong khi một bộ phận ĐCSVN vẫn nghi ngờ ý định thực sự của Mỹ trong việc cải thiện quan hệ với Việt Nam và coi Mỹ là kẻ chủ mưu chính trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, thì Mỹ cũng coi Việt Nam là một nước có thành tích nhân quyền yếu kém. Một số chính trị gia Mỹ đã nhấn mạnh rằng sự cải thiện hơn nữa trong quan hệ song phương sẽ phụ thuộc vào việc Việt Nam có cải thiện được hồ sơ nhân quyền của mình hay không.

Lập trường của Mỹ không chỉ xuất phát từ chính sách mở rộng dân chủ và nhân quyền khắp toàn cầu, mà còn xuất phát từ sức ép của cộng đồng người Việt tại Mỹ. Phần lớn trong số hơn 1,7 triệu người Mỹ gốc Việt rời khỏi Việt Nam sau năm 1975 và vẫn còn giữ thái độ thù địch với chế độ của ĐCSVN. Họ đã tiến hành các chiến dịch đòi chính phủ Mỹ hạn chế quan hệ với Việt Nam nhằm thúc ép Việt Nam tự do và dân chủ hóa chính trị.

Dưới sức ép đó, Mỹ đã thực thi một số biện pháp, bao gồm ban hành một báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền của Việt Nam và đôi lần can thiệp với chính quyền Việt Nam về việc bắt giữ các nhà bất đồng chính kiến. Mỹ cũng đã từng liệt Việt Nam vào danh sách các “quốc gia đặc biệt quan ngại” về tự do tôn giáo. Một dự luật tìm cách gắn viện trợ của Mỹ với hồ sơ nhân quyền của Việt Nam cũng đã đôi lần được thông qua bởi Hạ viện Mỹ nhưng chưa từng được Thượng viện phê chuẩn.

Tuy nhiên, với sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tái ưu tiên chiến lược của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, vấn đề nhân quyền có khả năng sẽ giảm vai trò là rào cản trong quan hệ hai nước. Lịch sử đã chỉ ra rằng vì các lý do chiến lược Mỹ sẵn sàng thúc đẩy quan hệ gần gũi với một số quốc gia nhất định bất chấp tình hình chính trị nội bộ của các nước đó, bao gồm cả tình trạng nhân quyền. Mỹ đã từng là đồng minh với Iraq của Saddam Hussein hay Ai Cập của Hosni Mubarak, và đã từng có bước xích lại chiến lược với Trung Quốc nhằm đối phó với Liên Xô những năm 1970.

Vì vậy nếu Mỹ nhận thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa lợi ích của mình và cần phải được ngăn chặn, Mỹ có thể sẽ bỏ qua tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam để theo đuổi một mối quan hệ đối tác chiến lược gần gũi hơn.

Lựa chọn của Việt Nam?

Tuy nhiên, ngay cả trong tình huống đó, vẫn còn một câu hỏi cần đặt ra: Việt Nam sẽ sẵn sàng đi xa tới đâu trong mối quan hệ này? Câu trả lời khả dĩ nhất lúc này có lẽ là “Không quá xa!” Một mối quan hệ Việt – Mỹ mật thiết hơn sẽ gây nên những căng thẳng không mong muốn trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, đặc biệt khi mà quan hệ Trung – Mỹ có khả năng xấu đi do cạnh tranh chiến lược, và Việt Nam không muốn tiếp tục trải qua những kinh nghiệm khó khăn thời kỳ những năm 1970-1980.

Cho dù tình thế đã thay đổi trong hơn ba thập kỷ qua, và Việt Nam giờ có khả năng và điều kiện tốt hơn trong việc chống chọi với áp lực từ Trung Quốc trong trường hợp quan hệ song phương xấu đi, nhưng sự gần gũi về mặt địa lý cũng như sự bất đối xứng quá lớn về quyền lực giữa hai nước vẫn khiến Việt Nam phải cân nhắc trước khi thực hiện bất cứ bước đi nào có thể làm quan hệ của mình với người làng giềng khổng lồ phương Bắc trở nên bất ổn.

Hơn nữa, với tư cách là một nước nhỏ, Việt Nam không muốn bị vướng vào cuộc chơi quyền lực giữa các nước lớn. Trong trường hợp muốn khai thông bế tắc trong quan hệ song phương, các nước lớn có thể sẵn sàng thỏa hiệp trên lưng của các đồng minh nhỏ của mình. Hiệp định Geneva năm 1954 hay Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 là hai trường hợp điển hình, trong đó Việt Nam bị chính các đồng minh nước lớn của mình phản bội.

Chính vì vậy chính sách tối ưu của Việt Nam vẫn là duy trì cần bằng trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Với định hướng đó, trong khi Việt Nam tiếp tục muốn thúc đẩy quan hệ với Mỹ như là một biện pháp nhằm răn đe các hành động hiếu chiến của Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam sẽ cố gắng không đẩy quan hệ với Mỹ đi quá xa làm tổn hại quan hệ với Trung Quốc.

Một khả năng duy nhất có thể khiến Việt Nam vượt quá giới hạn và tạm thời ngả hẳn vào tay Mỹ là khi Trung Quốc có các hành động hiếu chiến chống lại Việt Nam, như xâm lược các đảo hay bãi đá Việt Nam đang nắm giữ ở Trường Sa.

Còn trong thời gian trước mắt, Việt Nam sẽ tiếp tục chính sách cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo đó, Việt Nam sẽ coi quan hệ với Mỹ và Trung Quốc như là một phần của chiến lược “đa dạng hóa và đa phương hóa” quan hệ đối ngoại nhằm phục vụ quá trình phát triển kinh tế – xã hội trong nước của mình mà thôi.

Đây là bản lược dịch một phần trong báo cáo “Vietnam’s strategic trajectory: From internal development to external engagement” do Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI) xuất bản. Tác giả Lê Hồng Hiệp hiện đang là Nghiên cứu sinh Tiến sĩ ngành Khoa học chính trị tại Đại học New Southwales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra.

Nguồn: BBC Việt ngữ

- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2014/06/16/viet-nam-giua-hai-bo-trung-my/#sthash.hznyhDtt.dpuf

VÌ SAO MỸ THẤT BẠI Ở BIỂN ĐÔNG

Tác giả: Ngô Di Lân

Cuộc chiến giành ngôi vương ở Châu Á – Thái Bình Dương vẫn còn chưa ngã ngũ nhưng rõ ràng Mỹ đã thất bại trong việc ngăn chặn bước tiến của Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc chưa trở thành một bá quyền thực thụ ở Châu Á, song họ đã thành công trong việc đơn phương thay đổi nguyên trạng lãnh thổ ở Biển Đông mà không bị trừng phạt. Từ các nước láng giềng Châu Á cho đến Mỹ đều phải ngầm chấp nhận rằng những hòn đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã xây nên một cách trái phép ở Biển Đông là “sự đã rồi”. Trong thời gian trước mắt sẽ không có bất kì thế lực nào sẵn sàng thách thức sự kiểm soát của Trung Quốc đối với những hòn đảo này. Bước đầu trong đại kế hoạch “chấn hưng phục quốc” của người Trung Hoa đã thành công.

Nguyên nhân Mỹ thất bại

Lịch sử gần như chắc chắn sẽ ghi nhận Obama như một trong những tổng thống có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ bởi những di sản đối nội mà ông đã để lại như việc thông qua đạo luật chăm sóc y tế “Obamacare”. Nhưng Obama cũng sẽ là một nhân vật gây tranh cãi bậc nhất bởi ông được cho là để lại một di sản đối ngoại không thể tệ hơn cho nước Mỹ. Không ít người cho rằng “thế giới hậu Obama” là một thế giới vô cùng hỗn loạn và nguy hiểm mà trong đó vị thế của Mỹ ngày càng bị suy yếu đáng kể. Đây không phải là một quan điểm vô lý.

Ở Châu Âu, nước Nga đang trở mình mạnh mẽ để tìm lại vị thế cường quốc năm xưa. Cuộc khủng hoảng Ukraine cùng quyết định sáp nhập bán đảo Crimea của Nga đã phá tan sự bình yên bấy lâu nay của “thiên đường” Châu Âu và đặt khối NATO vào thế báo động. Đồng minh thân cận nhất của Mỹ là Anh Quốc đã rời khối EU, gây ảnh hưởng ít nhiều đến sự đoàn kết trong khối. Tệ hơn nữa, Brexit đã vô tình đặt ra tiền lệ cho việc một quốc thành viên ra rút khỏi EU – điều rất có thể sẽ đe doạ sự tồn tại của EU trong tương lai lâu dài.

Ở Châu Á, Trung Quốc vẫn ngang nhiên ỷ thế nước lớn bắt nạt các nước láng giềng nhỏ. Bên cạnh đó, Bắc Kinh vẫn không ngừng mở rộng và quân sự hoá tranh chấp ở Biển Đông mà không vấp phải sự chống đối đáng kể nào. Mặc dù Obama tuyên bố xoay trục về Châu Á nhưng không có động thái gì thực chất để thách thức các nước cờ ngoại giao cứng rắn của Trung Quốc trên Biển Đông. Trong khi đó, Hiệp định thương mại TPP được cho là yếu tố chủ chốt trong chính sách tái cân bằng thì Obama lại không thể thông qua Quốc hội trong nhiệm kỳ của mình và giờ TPP về cơ bản đã bị Trump xoá sổ.

Ở Trung Đông, cuộc nội chiến Syria vẫn chưa đến hồi kết và sự tung hoành của nhóm phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) đang tiếp tục đặt cả khu vực này vào tình thế bất ổn. Hơn nữa, sự bất ổn ở khu vực Trung Đông đang tạo ra một cuộc khủng hoảng di cư chưa từng có, gây ảnh hưởng trực tiếp tới ổn định xã hội ở các nước Châu Âu do sự gần gũi về mặt địa lý. Hệ quả là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tuý và cánh hữu cực đoan ở nhiều nước Châu Âu. Một khi chủ nghĩa cánh hữu bài ngoại lên ngôi, rất có thể Châu Âu sẽ một lần nữa tự đẩy mình đến bờ vực chiến tranh, một việc lâu nay được xem là không tưởng.

Nếu nhìn vào bức tranh tăm tối này, có lẽ nhiều người sẽ kết luận rằng Mỹ thất bại ở Biển Đông là do sự yếu kém và thiếu quyết đoán của Obama. Tuy nhiên, Obama không phải là nguyên nhân số một dẫn đến thất bại của Mỹ ở Biển Đông trước Trung Quốc. Mỹ thất bại chủ yếu vì họ là một siêu cường toàn cầu (global superpower) còn Trung Quốc chỉ là một cường quốc khu vực (regional power) và cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung đang diễn ra ở sân sau của Trung Quốc.

Không ít các học giả và chuyên gia đã nhận định rằng Mỹ và Trung Quốc đang bước vào một cuộc “Chiến tranh Lạnh” không khác gì cuộc cạnh tranh Mỹ-Xô sau Thế Chiến II. Đây là một nhận định sai lầm bởi trong suốt chiều dài của Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô đều là hai siêu cường toàn cầu. Cả hai đều có lợi ích chiến lược ở gần như tất cả các khu vực trọng yếu và đều có tham vọng truyền bá hệ tư tưởng của mình đi khắp năm châu. Vì vậy, cuộc cạnh tranh quyền lực Mỹ-Xô là một cuộc cạnh tranh quyền lực ở quy mô toàn cầu còn mâu thuẫn Mỹ-Trung hiện nay về cơ bản chỉ tập trung ở khu vực Châu Á nói chung và Đông Á nói riêng. Đây là điểm mấu chốt lý giải vì sao Mỹ lại thất thế trước Trung Quốc ở Biển Đông. Thứ nhất, vì Mỹ là siêu cường toàn cầu nên chỉ có lợi thế hơn Trung Quốc khi cạnh tranh ở quy mô toàn cầu. Khi mà khoảng cách giữa sức mạnh của Mỹ và Trung đã thu hẹp đáng kể thì Trung Quốc mới là bên chiếm ưu thế khi hai bên tranh đấu ở sân sau của Trung Quốc. Thứ hai, vì Biển Đông là khu vực sát sườn đối với Trung Quốc hơn đối với Mỹ nên Trung Quốc sẽ có quyết tâm hơn Mỹ trong việc bảo vệ lợi ích của mình ở khu vực này.

Nếu xét về tương quan lực lượng hiện nay thì rõ ràng Mỹ vẫn ưu việt hơn Trung Quốc về nhiều mặt. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong khi Mỹ phải dàn mỏng lực lượng của mình ra ba mặt trận lớn là Đông Âu, Trung Đông và Đông Á thì Trung Quốc về cơ bản chỉ một mặt trận lớn ở Đông Á. Trung Quốc chưa phải là một siêu cường toàn cầu nên họ có thể tham gia giải quyết các vấn đề khủng hoảng ở Châu Âu hay Trung Đông một cách thụ động và tập trung nguồn lực của mình cho một mặt trận chính ở Đông Á. Mỹ là siêu cường toàn cầu vì thế họ phải đảm bảo được vị thế của mình ở cả ba khu vực trọng yếu cùng lúc. Đây là chính sách nhất quán của Mỹ suốt từ thời Chiến tranh Lạnh đến giờ.

Cũng vì Mỹ luôn phải có mặt ở cả ba khu vực này nên đôi lúc sự linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Mỹ sẽ bị giảm sút đáng kể. Trong một thế giới viễn tưởng mà trong đó Mỹ không có lợi ích chiến lược ở Châu Âu và Trung Đông thì Washington hoàn toàn có thể mặc cả với Moskva để lấy lá bài Nga chống Trung Quốc như cặp đôi Nixon/Kissinger đã dùng lá bài Trung Quốc để kiềm chế Liên Xô vào những năm 1970. Trong bối cảnh hiện nay, lá bài Nga tuy ẩn chứa nhiều tiềm năng về mặt chiến lược nhưng lại không phải là một lựa chọn khả dĩ cho chính quyền Trump về mặt đối nội bởi đối với người Mỹ thì Nga hiện nay cũng là một đối thủ “không đội trời chung”, nhất là sau những tin đồn về mối quan hệ bất chính giữa chính quyền Trump và Nga. Do đó, hiện nay không có dư địa cho một sự hoà hoãn Mỹ-Nga để chống Trung Quốc.

Hơn nữa, tổng thống Mỹ được coi người lãnh đạo “thế giới tự do” và chính sách đối ngoại của Mỹ từ trước đến giờ vẫn luôn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các giá trị tự do. Vì vậy, dù có một cuộc khủng hoảng nổ ra ở một miền đất xa xôi nào đó không có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích chiến lược của Mỹ nhưng tổng thống Mỹ vẫn sẽ chịu sức ép phải can thiệp. Khi mùa xuân Ả Rập diễn ra, người ta kêu gọi nước Mỹ can thiệp để ủng hộ phong trào dân chủ ở đó. Khi nạn diệt chủng xảy ra ở Rwanda vào năm 1994, Mỹ cũng là nước chịu nhiều sức ép và sự chỉ trích nhất khi không nỗ lực can thiệp quân sự. Do đó, dù các tổng thống Mỹ nhận thấy được nhu cầu tập trung nguồn lực cho một vài lợi ích chiến lược đi nữa thì đôi khi họ vẫn phải can dự vào những vấn đề không thật sự sát sườn đối với nước Mỹ bởi nếu không thì hình ảnh của nước Mỹ sẽ bị xấu đi trong mắt quốc tế. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không phải chịu sức ép tương tự và vì vậy có thể nhắm mắt làm ngơ khi thảm sát diễn ra ở các vùng đất xa xôi không có ảnh hưởng trực tiếp đến Trung Quốc. Do đó, Mỹ sẽ luôn ở thế bất lợi hơn Trung Quốc nếu Bắc Kinh không phải dàn mỏng lực lượng của mình ra nhiều mặt trận khác nhau.

Cũng cần nói thêm rằng, tuy khu vực Biển Đông có ý nghĩa địa-chính trị chiến lược đối với cả Trung Quốc và Mỹ nhưng vì khu vực này sát sườn Trung Quốc hơn nên dĩ nhiên nó quan trọng với Trung Quốc hơn so với Mỹ. Trung Quốc sẽ thấy vô cùng bất an khi để hải quân của đối thủ kiểm soát Biển Đông cũng như Mỹ cảm thấy vô cùng bất an khi Liên Xô đặt tên lửa ở Cuba trong vào năm 1962 bởi sự hiện diện quân sự của đối thủ ở ngay sát lãnh thổ của mình cho phép đối phương tấn công trong một khoảng thời gian rất ngắn. Vì vậy, đối với Trung Quốc, việc Mỹ kiểm soát Biển Đông là mối đe doạ trực tiếp đối với an ninh quốc gia còn với Mỹ thì tuy Trung Quốc kiểm soát Biển Đông sẽ hạn chế phạm vi hoạt động của hải quân Mỹ và có thể làm suy yếu năng lực răn đe của Mỹ ở Châu Á nhưng nó không trực tiếp đe doạ an ninh quốc gia của Mỹ. Do đó, Trung Quốc sẵn sàng tập trung các nguồn lực của mình để bảo vệ lợi ích ở Biển Đông hơn Mỹ.

Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng sẵn sàng cư xử một cách cứng rắn ở Biển Đông hơn Mỹ bởi cái giá mà Bắc Kinh phải trả cho một thất bại ở Biển Đông lớn hơn nhiều lần so với Washington. Vì Biển Đông không đe doạ trực tiếp đến chủ quyền hay toàn vẹn lãnh thổ của Mỹ nên họ sẽ rất dè chừng trong việc đề ra các làn ranh đỏ (red lines) hay chủ động leo thang căng thẳng để buộc Trung Quốc lùi bước. Tất cả những yếu tố này đồng nghĩa với việc Mỹ sẽ không sẵn sàng hy sinh nhiều nguồn lực và chấp nhận tổn thất lớn bằng Trung Quốc để tranh giành quyền lực ở Biển Đông. Hệ quả gần như tất yếu là Mỹ sẽ thua cuộc.

Bài học từ Chiến tranh Lạnh

Lịch sử không bao giờ lặp lại một cách tuyệt đối nhưng không vì thế mà các bài học lịch sử mất đi giá trị của mình. Nếu các nhà lãnh đạo Mỹ nghiên cứu kỹ Chiến tranh Lạnh thì họ có thể rút ra một số bài học quan trọng, có thể áp dụng được trong tình thế hiện nay với Trung Quốc.

Thứ nhất, sở dĩ Mỹ đánh bại được Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh là bởi hai nước cạnh tranh quyền lực ở đủ các mặt trận khác: từ Tây Âu, Trung Đông và Mỹ-Latinh cho đến Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Vì Mỹ có mạng lưới đồng minh phủ sóng rộng rãi hơn Liên Xô và vì nền kinh tế của Mỹ năng động và bền vững hơn nền kinh tế của Liên Xô, chắc chắn Mỹ có lợi thế khi hai siêu cường cạnh tranh quyền lực ở quy mô toàn cầu. Một khi cuộc tranh đấu không chỉ giới hạn ở một khu vực địa lý nhất định thì sức mạnh quân sự không còn có vai trò quyết định nữa. Lúc đó tất cả các yếu tố cấu thành nên quyền lực quốc gia từ dân số, vị trí địa lý, hệ tư tưởng, tiềm lực khoa học kỹ thuật cho đến sức mạnh quân sự đều đóng vai trò hết sức quan trọng. Và xét một cách tổng thể thì Mỹ vượt xa Liên Xô. Thế nên không có gì ngạc nhiên khi Liên Xô bắt đầu “đuối sức” trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh. Mô hình phát triển, hệ tư tưởng của Liên Xô không chứng minh được sự ưu việt so với mô hình phát triển tư bản của phương Tây. Nền kinh tế của Liên Xô không đủ năng động để bắt kịp với nền kinh tế tự do của phương Tây. Ngày nay, tuy Trung Quốc có nhiều ưu thế hơn Mỹ ở khu vực Đông Á nhưng chắc chắn còn rất lâu nữa Trung Quốc mới có đủ nguồn lực để chạy đua với Mỹ ở nhiều mặt trận khác nhau, nhất là khi xã hội và nền chính trị Trung Quốc tiềm ẩn vô cùng nhiều nguy cơ tiềm tàng.

Thứ hai, Chiến tranh Lạnh cho thấy Mỹ có nền tảng sức mạnh vô cùng tiềm tàng. Tuy nhiên khi họ sa đà vào các cuộc chiến tranh vô nghĩa và tốn kém như chiến tranh Việt Nam thì họ tự khiến mình suy yếu. Nhưng khi Mỹ tránh được các cuộc xung đột vũ trang và tập trung cho sự phát triển trong nước thì họ giành thắng lợi bởi họ có hệ thống ưu việt hơn các đối thủ. Thế nên trong một cuộc chạy đua marathon với các đối thủ chiến lược, khả năng cao Mỹ sẽ giành phần thắng nếu họ không mắc phải các sai lầm đối ngoại và đẩy mình vào những cuộc chiến không đáng có.

Từ hai điều trên có thể kết luận rằng nhìn về tương lai lâu dài, nếu Mỹ muốn giữ được ngôi vị siêu cường số một của mình, đồng thời lấy lại vị thế ở Châu Á thì họ buộc phải chấp nhận lùi một bước để tiến hai bước. Cụ thể hơn, Mỹ cần tạm thời chấp nhận chia sẻ quyền lực với Trung Quốc và “trói” chặt Trung Quốc vào hệ thống quốc tế hiện nay hơn nữa bằng cách khuyến khích Trung Quốc đóng vai trò lớn hơn trong quản trị toàn cầu. Trên thực tế, điều này có nghĩa là thay vì tìm cách ngăn chặn các sáng kiến của Trung Quốc, như khi Mỹ gây sức ép lên các đồng minh để không tham gia vào ngân hàng AIIB, Mỹ thậm chí nên khuyến khích Trung Quốc phát triển càng nhiều sáng kiến ở càng nhiều các khu vực đa dạng càng tốt. Mỹ thậm chí có thể mặc cả với Trung Quốc về vấn đề Đài Loan, tạo điều kiện cho Trung Quốc sáp nhập Đài Loan vào lãnh thổ của mình một cách hoà bình. Việc Trung Quốc “nuốt chửng” được Đài Loan không nhất thiết sẽ làm gia tăng sức mạnh của Trung Quốc và nhiều khả năng sẽ tạo ra nhiều vấn đề hơn cho Trung Quốc bởi chắc chắn người Đài Loan sẽ không chịu quy phục một cách đơn giản như vậy.

Nói cách khác, trong thời gian trước mắt, Mỹ cần phải tìm cách nâng cao vị thế của Trung Quốc ở tầm toàn cầu và khiến Trung Quốc có thêm nhiều lợi ích quan trọng ở các khu vực khác nhau. Mục đích cuối cùng sẽ là khiến Trung Quốc dàn mỏng lực lượng và khi đó, Mỹ sẽ đẩy Trung Quốc vào một cuộc chạy đua ở quy mô toàn cầu, không khác gì cạnh tranh Mỹ-Xô trong Chiến tranh Lạnh. Khi đó, Mỹ sẽ chứng tỏ được sự ưu việt của hệ thống của mình và đánh bại Trung Quốc. Còn ngay lúc này, Mỹ tạm phải chấp nhận Trung Quốc là bá quyền ở Châu Á.

Ngô Di Lân là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Brandeis, Hoa Kỳ. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cá nhân tác giả.

- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/04/24/vi-sao-my-that-bai-o-bien-dong/#sthash.KHfIbph1.dpuf