Wednesday, June 6, 2018

Sự tham gia kinh tế của Trung Quốc ở châu Phi

Sự tham gia của Trung Quốc với châu Phi trong thập kỷ qua là một trong những phát triển quan trọng nhất trong khu vực. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã tăng cường quan hệ với các quốc gia châu Phi. Lịch sử cam kết của Trung Quốc với châu Phi có thể được bắt nguồn từ thế kỷ 15 khi các thương nhân Trung Quốc đến thăm Đông Phi. Nhưng nền tảng cho các mối quan hệ Trung-Phi ngày nay được xây dựng trong thời kỳ hậu thuộc địa, khi Trung Quốc mở rộng khuôn khổ hợp tác với châu Phi như một phần nỗ lực của mình để chứng minh tình đoàn kết với các nước đang phát triển.
Trong mười đến hai mươi năm qua, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất châu Phi. Với số tiền lên đến hơn 200 tỷ USD trong năm 2014, khối lượng thương mại Trung-Phi gần gấp ba lần thương mại Mỹ-châu Phi. Hợp tác kinh tế Trung-Phi đã đa dạng hóa trong vài năm qua và mở rộng sang nhiều lĩnh vực bao gồm thương mại, cơ sở hạ tầng, đầu tư công nghiệp, tài chính, hậu cần và hàng không khu vực. Đầu tư của Trung Quốc ở châu Phi là điểm nhấn của hợp tác kinh tế và thương mại Trung-Phi trong những năm qua. Nó được thiết lập để mang lại quan hệ kinh tế Trung-Phi đến một cấp độ mới trong những năm tới.

Read here

Saturday, June 2, 2018

Vai trò của EU tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương

Cuộc đua sức mạnh giữa các cường quốc lớn trong không gian Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ngày càng khốc liệt, đe dọa sự ổn định của khu vực, ảnh hưởng tới các lợi ích của EU. EU có thể đóng vai trò quan trọng trong môi trường an ninh khu vực mới mà không cần phải lựa chọn đứng hẳn về một phe nào.

Khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã trở thành một thuật ngữ được nhắc tới trong các văn kiện chính thức. Chiến lược chính sách đối ngoại Nhật Bản 2017, Chiến lược an ninh quốc gia và sau đó là Chiến lược quốc phòng Mỹ 2017 đều coi “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cởi mở và tự do” là một trong những mục tiêu cuối cùng của việc quản trị các vấn đề quốc tế trong khu vực từ Ấn Độ Dương cho tới Tây Thái Bình Dương. Trái ngược với khái niệm truyền thống “châu Á-Thái Bình Dương”, quá tập trung vào Mỹ và các đồng minh Đông Á, cấu trúc địa chiến lược mới dịch chuyển trung tâm của khu vực lệch sang phía Tây, phản ánh sự trỗi dậy của các nhân tố mới và các xu hướng mới định hình môi trường chiến lược khu vực.

Một trong những lý do chính của khái niệm mới này là chính sách an ninh và đối ngoại quyết đoán của Trung Quốc, cũng như những tham vọng biển xa của nước này. Sự bành trướng của Trung Quốc gần đây sang Ấn Độ Dương để bảo vệ các lợi ích kinh tế và chiến lược tại châu Phi, châu Âu và Trung Đông, dọc theo tuyến đường tơ lụa trên biển (MSR), làm dấy lên những quan ngại vượt quá phạm vi khu vực. Một lý do khác là sự nổi lên của Ấn Độ với tư cách là một nhân tố an ninh đã "đủ lông đủ cánh", và sự phát triển một cơ cấu hợp tác an ninh mạnh mẽ hơn giữa Mỹ với các quốc gia dân chủ trong khu vực, như Nhật Bản, Ấn Độ, Úc (thường được gọi dưới cái tên Đối thoại an ninh bốn bên), với mong muốn là duy trì nguyên trạng trật tự.

Sự hiện diện quân sự của Trung Quốc trên Ấn Độ Dương đã có từ năm 2008, khi Bắc Kinh bắt đầu tham gia cuộc chiến chống cướp biển quốc tế. Các tuyến đường hàng hải quốc tế trên đại dương (SLOC) là điểm yếu chiến lược rất lớn của nước này. Trung Quốc phụ thuộc vào SLOC để triếp cận Trung Đông, cũng như các đối tác thương mại chủ chốt tại châu Âu và châu Phi. Trong cái thường được gọi là “cách tiếp cận hai mặt” về mở rộng khả năng triển khai sức mạnh, quân đội chỉ là một phần của chiến lược rộng lớn hơn, kết hợp với những yếu tố khác như động lực hoặc sức ép kinh tế, chính trị. Trong số các thành tố chính của cách tiếp cận này, có cả biện pháp dùng sức mạnh dân sự và đầu tư kinh tế để thúc đẩy các lợi ích chiến lược. Kết hợp với “Chuỗi ngọc trai” - chiến lược địa chính trị của Trung Quốc trước đây tại Ấn Độ Dương - và nay là Sáng kiến "Vành đai và Con đường", phát triển kết nối cơ sở hạ tầng trọng yếu (cảng biển, đường bộ, đường sắt, …) trở thành dự án nổi bật trong chính sách đối ngoại của Bắc Kinh.

Đối với EU, những hoạt động của Trung Quốc dọc theo dự án đại kết nối các khu vực đang làm cho chính sách đối ngoại quyết đoán của nước này di chuyển gần đến họ hơn. Các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng với quy mô lớn vào một số thành viên và ở các nước thuộc Tây Balkan đã khiến sự đồng thuận và lập trường chung của châu Âu yếu đi. Tới nay, các tập đoàn quốc doanh Trung Quốc (SOE) kiểm soát tới 1/10 năng lực cảng biển của châu Âu, nắm quyền quản lý toàn bộ hoặc một phần cảng ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Italy, Bồ Đào Nha và mới đây là Bỉ. Brusseles đang từng bước xây dựng chương trình nghị sự để tăng cường sức kết nối giao thông và muốn đưa ra một lập trường chủ động hơn, các khoản đầu tư vào hạ tầng của Trung Quốc sẽ cần phải được xem xét một cách cẩn trọng hơn.

Do tầm quan trọng của Ấn Độ Dương và các tuyến đường thương mại trên đại dương này đối với Trung Quốc, kiểm soát chúng là cách thức để làm dịu bớt thái độ hung hăng của Bắc Kinh. Trong một nỗ lực nhằm duy trì sự cân bằng trong khu vực, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ và Úc đã quyết định làm sống lại nhóm Quad nhân một cuộc họp bên lề Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Malina hồi tháng 11/2017. Quyết định tái khởi động ý tưởng sau 1thập kỷ là bằng chứng cho thấy mối quan ngại ngày càng lớn về tham vọng hải quân Trung Quốc cũng như tư tưởng xét lại của nước này, trong bối cảnh Mỹ bước vào giai đoạn thiên về chủ nghĩa đơn phương.

Cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ cùng đồng minh gia tăng khiến cho phần lớn các nước Nam và Đông Nam Á đứng trước lựa chọn khó khăn. Giữa một Bắc Kinh đang cố gắng đấu tranh giành vị thế lãnh đạo toàn cầu và các nền dân chủ tự do khu vực đang cân nhắc làm sao để duy trì nguyên trạng, các cường quốc hạng trung và nhỏ trong khu vực phải suy ngẫm để đưa ra lựa chọn chiến lược riêng cho mình.

Về mặt địa lý, lịch sử và chính trị, Đông Nam Á từ lâu đã bị kẹt giữa phạm vi lợi ích của Trung Quốc và phương Tây. Tuy nhiên, bất chấp các khác biệt và tranh chấp đang xảy ra, các nước Đông Nam Á đang và sẽ vẫn nằm trong khu vực láng giềng gần của Trung Quốc và sẽ tiếp tục coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là cơ hội hơn tất cả mọi thứ khác. Các nước Nam Á có xu hướng coi Trung Quốc là đối trọng với Ấn Độ và một cơ hội để tăng đòn bẩy của mình trước thế lực bá chủ khu vực. Điều quan trọng nhất là tất cả các nước nằm dọc Tuyến đường tơ lụa trên biển đều bị lôi cuốn bởi triển vọng phát triển thịnh vượng và rất muốn hưởng các khoản đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng bắt nguồn từ sáng kiến này.

Lời hứa hẹn về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương “cởi mở và tự do” có thể hấp dẫn, nhưng nó vẫn rất mơ hồ và thiếu những sáng kiến cụ thể cho các nước trong ngắn và trung hạn. Do đó, việc nhấn mạnh về hợp tác giữa các nước “cùng chí hướng” không hẳn phù hợp với tinh thần mở cửa và toàn diện. Một hệ thống hợp tác an ninh bền vững cần phải được quản lý bởi các chuẩn mực chung và thu hút tất cả các nước thành viên.

Bên cạnh lợi ích kinh tế, châu Âu - điểm cuối của Sáng kiến "Vành đai và Con đường" - đã cảm nhận được những tác động rất lớn của chính sách đối ngoại theo chiều hướng trọng thương của Bắc Kinh đối với an ninh và sự gắn kết nội bộ của khối. Do đó, việc phải có cách tiếp cận chiến lược và chủ động đối với với các sáng kiến tăng cường kết nối mới, phát triển an ninh trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nói chung không còn là một lựa chọn, mà đã trở nên rất cần thiết đối với EU.

Trật tự khu vực mới đang hình thành sẽ tạo ra cơ hội chưa từng có để EU chứng tỏ giá trị gia tăng của mình. Thách thức hiện nay là làm thế nào để củng cố các cam kết với Trung Quốc, trong khi vẫn thúc đẩy được các nguyên tắc cho một liên minh không cần phải chọn đứng hẳn về một bên nào.

Cuộc chơi mới: Trung Quốc và cuộc cạnh tranh khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương

Khả năng phô trương sức mạnh hải quân đang gia tăng của Trung Quốc - cũng như sự chuyển hướng của họ sang chiến lược phòng thủ tích cực - đã kích động sự cạnh tranh căng thẳng trên biển ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nơi các quan điểm truyền thống về phạm vi ảnh hưởng đang bị thách thức.

Trong vòng khoảng 5 năm qua, Trung Quốc đã áp dụng chính sách ngoại giao ngày một hung hăng nhằm tìm cách thay đổi trật tự chính trị và an ninh tại vùng biển châu Á, nếu họ không bị ngăn chặn. Chính sách đó bao gồm việc bất chấp luật lệ quốc tế, xây dựng các đảo nhân tạo và các thực thể khác để đòi hỏi chủ quyền tại vùng biển tranh chấp, sử dụng vốn và thương mại làm “vũ khí”, thực thi hành động quân sự để tìm cách giữ chân các cường quốc khác bên ngoài phía Tây Thái Bình Dương, cùng với đó là các nỗ lực để gây ảnh hưởng và định hình chính trị nội bộ của quốc gia khác, cường quốc Trung Quốc có thể tuyên bố chấm dứt trật tự thế giới tự do mà chúng ta đã biết kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trung Quốc đang trở thành “Trung Quốc 2.0”: Đứng trên đỉnh của một châu Á có tính phân cấp sâu sắc, nơi tất cả nước phải cúi đầu trước một nhà nước Trung Quốc siêu cường.

Nếu sự trỗi dậy của Trung Quốc là một phần của thế cân bằng địa chính trị đang nổi lên, thì việc tạo ra khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” như là một thực thể chiến lược là phần còn lại. Không gian hàng hải rộng lớn này là sự “nhất quán” hoàn hảo - bởi nó thống nhất một vùng biển rộng lớn vốn bị chia cắt thành Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương - một khái niệm mang tính chiến lược nhằm thúc đẩy các quy phạm về tự do và mở – cũng là một biện pháp “chống gián đoạn”. Nó rõ ràng nổi lên như một cách phản ứng trước hành động gây chia rẽ của Trung Quốc trong không gian địa lý đó, cho dù đó là hành động hung hăng ở Biển Đông hay biển Hoa Đông, nhấn chìm các nước châu Á ven biển trong nợ nần, hay xây dựng một loạt cơ sở với mục đích kép trên Ấn Độ Dương.

Trong thế cân bằng địa chính trị mới này - ở đó Trung Quốc theo chủ nghĩa xét lại đang có xu hướng trở thành bá chủ châu Á và khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang nổi lên - các động lực mới đã xuất hiện, bao gồm các cuộc cạnh tranh và tranh cãi về quân sự, kinh tế và công nghệ. Các nước vốn duy trì các quy chuẩn và lý tưởng tự do trong khu vực - tức Bộ tứ gồm Mỹ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ - sẽ chống lại các hành vi gây hấn của Trung Quốc, theo cách riêng lẻ hay tập thể, ngay cả khi các cường quốc nhỏ hơn tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn phải tiếp tục vật lộn với ảnh hưởng từ Trung Quốc siêu cường. Sự phản ứng mạnh mẽ này của các nước sẽ là phép thử cho sự quyết tâm của Trung Quốc trong việc tìm kiếm quyền bá chủ châu Á, dẫn tới nhiều sự phản kháng hơn và những xáo trộn tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Việc sử dụng tất cả các công cụ sẵn có là câu chuyện địa chính trị trong thời đại của chúng ta, trước tương lai đầy bất ổn của lục địa “hay biến đổi” nhất thế giới.

Phong cách “gây rối” của Trung Quốc

Đô đốc Harry Harris, chỉ huy Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, không phải là người ít nói hay ngại nói thẳng. Bởi vậy, tại Đối thoại Raisina hồi tháng 1/2018, ông đã gọi Trung Quốc là “thách thức dài hạn” đang “gây trở ngại cho sự thịnh vượng, cởi mở và tính toàn diện” tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, điều hầu như không gây sốc cho nhiều thính giả. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là phải xác định chính xác Trung Quốc đang cản trở điều gì và bằng cách nào, để hiểu được cách thức đối phó sau đó. Sự cản trở của Trung Quốc xuất hiện trong 2 lĩnh vực khác nhau, đó là: thay đổi trật tự luật chơi tại vùng biển phía Tây Thái Bình Dương - và ngày một thách thức ở Ấn Độ Dương, và sử dụng vốn và thương mại như “vũ khí” để tạo ra một phiên bản mới của hệ thống các nước chư hầu của Trung Quốc cổ đại.

Thách thức của Trung Quốc đối với cấu trúc trên biển đến từ việc nước này bồi đắp các đảo và thực thể, và trong nhiều trường hợp thậm chí còn xây dựng lại chúng. Hành động này đến nay đã diễn ra trên Biển Đông, nhưng cũng có các báo cáo cho thấy Trung Quốc có thể xây dựng các đảo nhân tạo gần Maldives. Bắc Kinh đã tiến hành lắp đặt các hệ thống vũ khí và xây dựng các đường băng để phục vụ máy bay quân sự trên các thực thể đó.

Cần phải nhớ rằng các hòn đảo được quân sự hóa đó nằm trong vùng biển vốn là nơi giao thương của 3.400 tỷ USD hàng hóa toàn cầu. Cùng với “chiến lược phòng thủ tích cực” mà theo đó Bắc Kinh tìm cách kiểm soát Biển Đông cũng như khả năng đẩy lùi hải quân nước khác khỏi khu vực nếu cần thiết, họ đang thiết lập một vùng ảnh hưởng độc quyền tại khu vực đó của Tây Thái Bình Dương.

Dần dần, Trung Quốc cũng tăng cường sự hiện diện ở Ấn Độ Dương. Nói một cách công bằng, một số quan ngại của Trung Quốc tại vùng biển đó là rất chính đáng. Trung Quốc đang quan ngại về an ninh của tuyến đường biển thông qua Ấn Độ Dương, đặc biệt bởi sự phụ thuộc của họ vào nguồn cung năng lượng từ Trung Đông, cũng như các nguồn lực khác từ châu Phi, đang tăng lên.

Tuy nhiên, các lợi ích của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương đang dần đạt được ý nghĩa địa chính trị. Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đã bắt đầu dự án kết nối lớn trải rộng hầu hết Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Một phần trong sáng kiến này bao gồm các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng khổng lồ của Trung Quốc tại các nước nhỏ ven biển Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Các quốc gia này, như Sri Lanka, Maldives, và thậm chí là Pakistan, đang có các khoản nợ với Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc đang tìm cách định hướng các lựa chọn chính sách đối ngoại của các nước này và thách thức vị thế áp đảo của Ấn Độ tại Ấn Độ Dương.

Tiến vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương

Khả năng phô trương sức mạnh hải quân đang gia tăng của Trung Quốc - cũng như sự chuyển hướng của họ sang chiến lược phòng thủ tích cực - đã kích động sự cạnh tranh căng thẳng trên biển ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nơi các quan điểm truyền thống về phạm vi ảnh hưởng đang bị thách thức. Trung Quốc khẳng định rằng Ấn Độ Dương không phải là đại dương của Ấn Độ, điều khiến nhiều chiến lược gia Ấn Độ cũng lập luận rằng Biển Đông (theo cách gọi của Trung Quốc là Biển Nam Trung Hoa) không phải là vùng biển phía Nam của Trung Quốc.

Mỹ, bắt đầu với chiến lược “xoay trục” sang châu Á hồi năm 2011, đã nói rõ rằng họ sẽ không cho phép một đối thủ ngang tầm trỗi dậy trong châu lục. Những bất đồng trong lịch sử giữa Nhật Bản và Trung Quốc cũng tiếp tục làm trầm trọng thêm quan hệ hai bên. Các nước khác trong khu vực, như Úc, đã nhận ra rằng những ngày tháng duy trì quan điểm trung lập khi nhắc đến cuộc chơi ở lục địa và vùng biển châu Á đã qua.

Là một khái niệm mang tính chiến lược, Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là “đứa con ngoài giá thú” trong cuộc cạnh tranh này. Nó nổi lên như một sự đồng thuận giữa Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và Mỹ, không phải như một nguyên tắc cứng nhắc của ý thức hệ mà như một thỏa thuận được đưa ra một cách ngẫu nhiên.

Chính các thách thức từ sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như các mối đe dọa khác trong khu vực đã khiến 4 nước bắt đầu coi Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương như một vũ đài chiến lược thống nhất. Mặc dù khái niệm này trước đây đã được các học giả đưa ra một cách không chính thức, đặc biệt bởi chiến lược gia Ấn Độ Gurpreet Khurana kể từ năm 2007, nhưng chỉ đến khi Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ được công bố hồi tháng 12/2017 thì khái niệm này mới được đưa vào chính sách quốc phòng và ngoại giao của Mỹ. Cũng không phải ngẫu nhiên khi văn bản này, lần đầu tiên trong lịch sử, đã gọi Trung Quốc là “cường quốc xét lại” và hàm ý rằng họ là mối đe dọa đối với trật tự thế giới tự do.

Điều đó không có nghĩa là khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã được thống nhất. Hiện vẫn có nhiều bất đồng cơ bản giữa những người ủng hộ khái niệm này, chưa kể đến việc thiếu vắng một định nghĩa được mọi người chấp nhận. Mặc dù tất cả các bên dường như đồng ý rằng nó sẽ bao gồm phía Tây Thái Bình Dương, nhưng hiện vẫn chưa rõ liệu nó có bao gồm phía Tây Ấn Độ Dương hay không. Đây là một vấn đề quan trọng đối với Ấn Độ. Những bất đồng này bao gồm các câu hỏi về tương lai của Afghanistan, sự khoan dung của Mỹ dành cho Pakistan, cũng như các quan điểm khác nhau về Iran. Đặc trưng của vùng biển đó không giống như biên giới trên bộ; khái niệm này có thể thay đổi, có thể được mở rộng khi xuất hiện nhu cầu chiến lược.

Sự trở lại của Bộ tứ

Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về quy tắc rõ ràng là tự do, cởi mở và thịnh vượng. Tuy nhiên, nếu chỉ nói về các quy tắc và giá trị này thì không có ý nghĩa. Việc giữ vững và thúc đẩy các quy tắc cần phải có tính thuyết phục, sự hỗ trợ của sức mạnh quân sự và kinh tế, theo đó là sự khen thưởng những quốc gia tuân thủ và trừng phạt đối với những bên không tuân theo. Trong tương lai, Bộ tứ gồm Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ - được tái sinh sau 10 năm – có thể chính là phương tiện giúp duy trì một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương có quy tắc, trật tự theo 2 cách cụ thể. Thứ nhất, nhóm này có thể mang tới giải pháp thay thế cho “ngoại giao bẫy nợ” của Trung Quốc (cụm từ được chuyên gia chiến lược Ấn Độ Brahma Chellaney sử dụng). Thứ hai, nhóm này có thể gửi một tín hiệu rõ ràng đến quân đội Bắc Kinh rằng Bộ tứ sẽ không chấp nhận sự bá quyền Trung Quốc tại khu vực hàng hải chung ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Hiện nay, phương án đầu tiên đang ngày càng được chấp thuận; tuy nhiên, với sức mạnh của Trung Quốc trong khu vực, không thể tránh được việc sẽ phải dùng đến phương án thứ 2 trong tương lai.

Thông qua sáng kiến “Vành đai và Con đường” kết nối rộng khắp, Trung Quốc đã hỗ trợ xây cảng, đường sá cũng như các cơ sở hạ tầng khác tại hàng loạt nước châu Á (và thậm chí cả ở châu Âu). Trong khi bản thân việc này không phải một vấn đề, tình trạng của các dự án hỗ trợ tài chính cho cơ sở hạ tầng này khiến nhiều nước trên thế giới không yên lòng. Vấn đề nằm ở các điều khoản thương mại của các dự án này, cũng như năng lực hoàn trả nợ của các nước được Trung Quốc hỗ trợ. Một vài dự án cơ sở hạ tầng thuộc sáng kiến này, đặc biệt là các cảng biển, có khả năng được sử dụng cho 2 mục đích, hoặc trở thành bước chuẩn bị cho việc thành lập các căn cứ quân sự. Một ví dụ là Gwadar ở Pakistan. Trong khi cả Trung Quốc lẫn Pakistan đều gọi cảng này là một cơ sở thương mại, bề ngoài được thiết kế để giảm thiểu sự phụ thuộc của Trung Quốc vào eo biển Malacca, một số báo cáo cho rằng mục đích thật sự của Bắc Kinh là xây dựng một cơ sở quân sự tại Jiwani, bên cạnh Gwadar. Bộ tứ – đơn phương, song phương, ba bên hay với tư cách là một nhóm – sẽ phải đưa ra được các phương án đáng tin cậy và bền vững để đối trọng với sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Các phương án đối trọng này cần phải hiểu rõ các mục đích thương mại cũng như địa chiến lược của các khoản đầu tư của Trung Quốc. Hành lang tăng trưởng Á-Phi mới được đề xuất (một sáng kiến của Nhật Bản và Ấn Độ) là bước đi đầu tiên đúng hướng.

Chương trình hành động quân sự - chính trị của Bộ tứ vẫn đang trong giai đoạn non trẻ. Tuy nhiên, thuyết phục, cản trở và phòng thủ (chiến lược 3D) trước sự hung hăng không khoan nhượng của Trung Quốc nên là các mục tiêu chủ chốt của Bộ tứ. Bốn nước này nên thuyết phục Trung Quốc ngừng theo đuổi chiến lược phòng thủ chủ động của họ, nên ngăn cản Trung Quốc đạt được các mục tiêu chiến lược bằng cách tránh né một cách thông minh giới hạn đỏ của một cuộc chiến tranh. Cuối cùng, Bộ tứ nên bảo vệ các tuyến giao thông liên lạc trên biển trong trường hợp sự thuyết phục và ngăn cản không đạt được kết quả.

Bốn nước có thể đạt được các mục tiêu này thông qua việc phát triển các mạng lưới hậu cần chung, năng lực hoạt động chung giữa hải quân 4 nước, và chia sẻ năng lực trinh sát-do thám-tình báo cũng như tác chiến chống tàu ngầm. Bộ tứ nên kết hợp các hoạt động quân sự và chiến lược 3D dưới dạng các cuộc tập trận chung và ngoại giao phòng thủ chung, các chiến dịch tuần tra và hiện diện trên biển, cũng như các hoạt động duy trì tự do hàng không và hàng hải. Và điều hiển nhiên là 4 nước này nên giải quyết các mâu thuẫn chính trị nội bộ trước khi triển khai chiến lược này, bao gồm sự ám ảnh của Ấn Độ đối với “quyền tự trị chiến lược” (dù khái niệm này trên thực tế có nghĩa là gì đi nữa). Để Bộ tứ có được sức mạnh và tầm ảnh hưởng thực sự, một nhân tố quân sự vững mạnh là không thể thiếu.

Một không gian cạnh tranh ba chiều

Tương lai khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ như thế nào, trong bối cảnh chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc và kèm theo đó là bước lùi của nhiều nền dân chủ tự do trong khu vực, dù có hay không có Bộ tứ? Để hiểu được vấn đề này, cách tốt nhất là hình dung cuộc đối đầu hiện nay như một bàn cờ không gian 3 chiều (một sự cải biên phép ẩn dụ nổi tiếng của học giả người Mỹ Joseph Nye). Trong bàn cờ không gian 3 chiều, tất cả các lớp đều liên kết với nhau. Trong một cuộc chơi tương tự được dự báo là sẽ xảy ra tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương giữa Trung Quốc và các cường quốc dân chủ không muốn khuất phục trước thế bá quyền của Bắc Kinh, lớp địa chính trị sẽ nối liền với lớp địa kinh tế. Các lớp này cũng sẽ kết nối với một lớp thứ 3 là địa kỹ thuật – một khái niệm từ chuyên gia chiến lược toàn cầu Parag Khanna.

Tác giả kết thúc bài viết này với một vài giải thích về ý nghĩa cụm từ này.

Việc công nghệ và nghệ thuật lãnh đạo đất nước có mối quan hệ mật thiết với nhau là một ý tưởng đã có và được công nhận từ lâu: Các nước sở hữu công nghệ vượt trội thường xuyên – dù không phải điều này lúc nào cũng đúng – có ưu thế quyết định so với các nước khác. Tuy nhiên, sở hữu công nghệ vượt trội cũng là một chỉ dấu cho sức mạnh toàn diện của một quốc gia, bao gồm việc có một nền kinh tế sáng tạo và sôi động.

Trong một thời gian dài, nền tảng kỹ thuật bản địa của Trung Quốc yếu kém do nước này dựa vào các kỹ thuật ăn cắp từ phương Tây. Điều này đã thay đổi đáng kể trong nhiều năm trở lại đây, trong bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc chuyển đổi từ mô hình sản xuất phục vụ xuất khẩu sang mô hình dựa trên sáng tạo và dịch vụ. Trung Quốc cũng ngừng phân biệt rạch ròi giữa ứng dụng công nghệ trong quân đội và mục đích dân sự, thay vào đó tạo ra một cái gọi là “sự hòa trộn giữa quân sự và dân sự”. Tháng 1/2017, Chủ tịch Tập Cận Bình đã thành lập một ủy ban trung ương mới giám sát quá trình phát triển các dự án hợp tác dân sự và quân sự. Ủy ban mới này làm nhiệm vụ đồng bộ hóa các nỗ lực nghiên cứu quân sự và dân sự cũng như những cải biên sáng chế dân sự để phục vụ cho quân sự. Thông qua sự phối hợp này, Trung Quốc đã đạt được những tiến độ đáng kinh ngạc trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ lượng tử vào lĩnh vực an ninh quốc gia.

Trong khi Mỹ không có một mô hình kết cấu nhà nước tương tự cho sự giao thoa giữa công nghệ quân sự và công nghệ dân sự, ngành công nghiệp quân sự khổng lồ của nước này trước nay vẫn làm nhiệm vụ là cầu nối giữa 2 mảng. Chiến lược phòng thủ “đối trọng thứ ba” của Mỹ dựa nhiều vào máy tính, trí tuệ nhân tạo và các công nghệ tiên tiến khác vốn trước nay được coi là độc quyền của Thung lũng Silicon. Úc và Nhật Bản cũng đều là các trung tâm công nghệ, và Ấn Độ thì nổi tiếng với các chuyên gia kỹ thuật. Vì thế, không gian cuộc chiến mới ở châu Á sẽ xoay quanh cuộc cạnh tranh địa kinh tế, địa chính trị và cả địa kỹ thuật khi mỗi bên sẽ tìm cách giành lợi thế quyết định so với bên kia.

Động lực tương liên giữa địa chính trị, địa kinh tế và địa kỹ thuật này sẽ quyết định tương lai của châu Á. Nói cách khác, bên cạnh một khu vực thương mại hàng hải Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương được định hình bởi các mô hình liên kết mới và một Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương địa chính trị chứng kiến sự đối đầu căng thẳng trên biển, sẽ còn có cả một Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với những ý tưởng công nghệ đánh chặn và một loạt quy tắc sẽ định hình việc sử dụng các công nghệ này. Có ý kiến cho rằng cuối cùng thì chính cuộc cạnh tranh địa kỹ thuật sẽ quyết định quỹ đạo của cuộc cạnh tranh địa kinh tế và địa chính trị.






Quan điểm của Trung Quốc về chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương

Nhìn chung, đa số các học giả Trung Quốc có xu hướng coi đây là một chiến lược để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tuy nhiên, các học giả Trung Quốc không chắc chắn về tính hiệu quả trong tương lai của chiến lược này do vấn đề còn tồn tại trong hợp tác giữa Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc.

Các học giả Trung Quốc coi chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở là một chính sách ngăn chặn, nhưng họ không tin rằng nó sẽ lâu dài.

Mặc dù Chính phủ Trung Quốc chưa công khai thảo luận về chiến lược “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở” (FOIP) của Mỹ - thường được gọi đơn giản ở Trung Quốc là chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương – nhưng cộng đồng học giả Trung Quốc đã có một cuộc tranh luận nảy lửa về bản chất của khái niệm này, tác động có thể có đối với Trung Quốc và khu vực, và tương lai của quan hệ Mỹ-Trung. Những cuộc tranh luận đang diễn ra giữa những tiếng nói bên trong của Trung Quốc đã làm sáng tỏ một khái niệm quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung và các vấn đề khu vực ở châu Á.

Định nghĩa của Trung Quốc

Theo một số học giả Trung Quốc, chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một ý tưởng sơ bộ để Mỹ kết nối Ấn Độ Dương và khu vực Thái Bình Dương, kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc từ góc độ địa chính trị và bảo vệ quyền lãnh đạo và các lợi ích của chính họ trong khu vực.

Nhiều học giả Trung Quốc tin rằng khái niệm này vẫn chưa phát triển hoàn thiện. Chẳng hạn, Lin Minwang, một nhà nghiên cứu thuộc Đại học Phúc Đán, tin rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn là một khái niệm cần được xây dựng và đối thoại an ninh 4 bên – Bộ Tứ được hình thành gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc – chỉ là sự khởi đầu cho việc xây dựng khu vực an ninh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Hơn nữa, nhiều học giả tin rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đơn giản là sự kế thừa và mở rộng chiến lược “tái cân bằng” của Chính quyền Obama. Chẳng hạn, Wang Xiaowen, một học giả thuộc Đại học Ngôn ngữ và văn hóa Bắc Kinh, đã viết rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về cơ bản là một sự mở rộng và làm sâu sắc hơn chiến lược “tái cân bằng”, với mục tiêu kết nối khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương về mặt chiến lược.

Zheng Yongnian, một học giả nổi tiếng đến từ Singapore, đã lưu ý rằng “sự xuất hiện của ‘chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương’ có liên quan đến thực tế rằng trật tự thế giới và cốt lõi của cuộc cạnh tranh quyền lực đang trải qua một sự chuyển biến lớn”.

Việc phát triển khái niệm này có liên quan mật thiết đến những thay đổi trong tình hình địa chính trị của châu Á, và định nghĩa của nó về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nhằm mục đích định hình lại trật tự khu vực này. Một số học giả tin rằng cốt lõi của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là nhóm 4 nước được gọi là Bộ Tứ. Jin Canrong, một học giả nổi tiếng người Trung Quốc đến từ Đại học Nhân dân, tuyên bố rằng “liên minh Mỹ-Nhật Bản-Ấn Độ-Úc dựa trên các giá trị dân chủ, trong khi liên minh Nhật Bản-Ấn Độ-Úc-Việt Nam, được Mỹ mặc nhiên chấp nhận và Nhật Bản đóng vai trò dẫn đầu, là một khái niệm địa chính trị”.

Hiện tại, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc dường như có những đánh giá và cân nhắc khác nhau về chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Do sự suy giảm sức mạnh của Mỹ và những chia rẽ nội bộ trong hệ thống liên minh, và những khác biệt trong năng lực giữa các nước, có những khác biệt trong cách mà mỗi thành viên huy động các nguồn lực chiến lược. Theo nghĩa đó, nhiều học giả Trung Quốc tin rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do Chính quyền Trump đưa ra là có hạn và phải đối mặt với nhiều điều không chắc chắn trong những năm tới.

Bối cảnh của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương

Trong những năm gần đây, chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và khái niệm Bộ Tứ đã được đưa ra và nhận được sự ủng hộ của nhiều nước tại nhiều thời điểm khác nhau. Một mặt, các học giả Trung Quốc tin rằng những thay đổi địa chính trị do sự trỗi dậy của Trung Quốc mang lại là nguyên nhân chính khiến Washington đang nỗ lực thúc đẩy các liên minh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là nhằm chống lại hành vi của Trung Quốc trong tương lai.

Vài năm trước, Wei Zongyou, một học giả thuộc Đại học Phúc Đán, đề xuất rằng khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang trở thành trung tâm địa chiến lược tiếp theo của thế giới. Với sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nền kinh tế mới nổi khác trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã chuyển hướng các trọng tâm chiến lược của họ sang phía Đông. Trọng tâm của nền chính trị quốc tế cũng đã chuyển sang khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Chẳng hạn, Giáo sư Zhu Feng đến từ Đại học Nam Kinh tin rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Trump phản ánh thực tế rằng kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cán cân sức mạnh và tình hình địa chiến lược ở khu vực châu Á đã thay đổi. Chen Bangyu, một học giả thuộc Đại học Sư phạm Hoa Trung, chỉ ra rằng việc tạo thế cân bằng với Trung Quốc là một động lực căn bản đối với Mỹ, Úc và Ấn Độ nhằm thúc đẩy khái niệm chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Xia Liping thuộc Đại học Đồng Tế tin rằng chiến lược này của Mỹ thực tế là một nỗ lực nhằm tiết chế sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ bên trong khuôn khổ của cấu trúc quốc tế và các quy tắc quốc tế vốn do Mỹ chi phối. Phần lớn các học giả Trung Quốc có hiểu biết tương tự nhau về định hướng của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong đó mục đích của nó là kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Mặt khác, nhiều học giả cũng công nhận rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Trump là một phiên bản sửa đổi và cập nhật của chiến lược “tái cân bằng” của Obama. Xue Li, một nhà nghiên cứu thuộc Học viện Khoa học xã hội Trung Quốc, tin rằng chiến lược mới này là cần thiết do văn hóa chiến lược và nhu cầu phải có cán cân sức mạnh ở Mỹ. Hu Xin, một học giả thuộc Đại học quốc gia về Khoa học và công nghệ quốc phòng, cũng chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân giải thích cho sự lựa chọn của Trump về chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là do chiến lược “tái cân bằng” không thành công và ngoại giao láng giềng của Trung Quốc đã bù đắp cho bất kỳ hiệu quả ban đầu nào mà chiến lược “tái cân bằng” đã mang lại, buộc Mỹ phải tìm kiếm một “tiêu điểm” mới. Bên cạnh đó, Lin Minwang của Đại học Phúc Đán, người tập trung vào nghiên cứu quan hệ Trung-Ấn, tin rằng việc thúc đẩy quan hệ giữa 4 quốc gia trong Bộ Tứ, và phát triển một cơ chế đối thoại 4 bên, là một động lực nội tại và nền tảng cho sự phát triển bền vững của cơ chế đối thoại an ninh.

Như vậy, những thay đổi trong môi trường địa chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là những nguyên nhân căn bản thúc đẩy việc lập ra chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Trong bối cảnh vị thế thống trị của Mỹ đang tương đối suy yếu và trọng lực địa chính trị và kinh tế đang ngày càng chuyển dịch sang khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, mục tiêu là định hình lại các liên minh và quan hệ đối tác để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Chiến lược này hoạt động như thế nào?

Hiện nay, nhiều chiến lược gia người Trung Quốc đã chỉ ra rằng vì chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Trump vẫn còn trong giai đoạn trứng nước, nên đường hướng chính sách của nó vẫn chưa chắc chắn. Tuy nhiên, không khó để dự đoán rằng Mỹ sẽ tiến hành một chiến dịch trấn áp chiến lược chống lại Trung Quốc theo nhiều cách. Theo quan điểm của nhiều học giả Trung Quốc, các triển vọng trong tương lai của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đều mơ hồ. Chen Jimin, phó giáo sư thuộc Trường Đảng Trung ương Trung Quốc, tin rằng nó sẽ phải đối mặt với một số điểm hạn chế: Lập trường “Nước Mỹ trước tiên” của Trump đã làm xói mòn động lực trong nước đối với chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương; êkíp hiện nay của Chính quyền Trump không mạnh mẽ; và các nước trong khu vực đang “đặt cược cho cả 2 bên” (hay phòng ngừa) để tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào một nước Mỹ không đáng tin cậy. Huang Jing, một giáo sư thỉnh giảng thuộc Trường chính sách công Lý Quang Diệu ở Singapore, tin rằng chỉ mỗi sự tồn tại của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương thì không có nghĩa là nó có thể được thực hiện hiệu quả, và việc liệu nó có được thực hiện hay không phụ thuộc phần lớn vào cách phản ứng của Trung Quốc. Jin Canrong thuộc Đại học Nhân dân đã chỉ ra một cách trực tiếp hơn rằng “ý tưởng ‘chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương’ giống như một bong bóng; ngay khi mặt trời chiếu sáng, bong bóng sẽ biến mất”. Quan điểm này trực tiếp đặt câu hỏi về tính khả thi và các triển vọng trong tương lai của Bộ Tứ và khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn.

Từ quan điểm này, mặc dù các học giả Trung Quốc tin rằng mục tiêu ban đầu của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, ở một mức độ nhất định, là kiềm chế Trung Quốc và cản trở việc xây dựng lại trật tự khu vực thông qua các chiến lược như Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc, nhưng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương có thể phải đối mặt với các vấn đề về nguồn lực, và/hoặc bị chệch hướng bởi những thay đổi hơn nữa trong tình hình khu vực và việc các bên không thể tham gia đầy đủ.

Các học giả Trung Quốc do đó nghi ngờ liệu chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương có thể đạt được các mục tiêu của nó hay không. Tuy nhiên, một số học giả cũng đã phân tích các xu hướng chính sách cụ thể của Mỹ và cách họ suy ngẫm về chiến lược này. Giáo sư Zhu thuộc Đại học Nam Kinh tin rằng Mỹ sẽ tiếp tục sử dụng các liên minh quân sự của họ để đối trọng với Trung Quốc, mở rộng mạng lưới liên minh phương Tây ở châu Á, ngăn chặn và kiềm chế Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Theo một phân tích của Wu Minwen đến từ Đại học quốc gia về Khoa học và Công nghệ quốc phòng, khi Mỹ triển khai chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong khu vực, họ sẽ áp dụng các biện pháp toàn diện ở nhiều cấp độ từ chính trị (thúc đẩy các giá trị dân chủ) cho đến ngoại giao (lôi kéo các nước đối tác có chung tư tưởng) và quân sự (tập trận và buôn bán vũ khí) nhằm đẩy mạnh sứ mệnh kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trong vấn đề này, Mỹ cũng nhắm mục tiêu làm suy yếu tầm ảnh hưởng của Trung Quốc nhằm mục đích duy trì, đảm bảo và củng cố vị thế bá chủ của Washington.

Đối với các học giả Trung Quốc, chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương phải đối mặt với nhiều điều không chắc chắn. Mặc dù mục tiêu cốt lõi của nó đã rõ ràng, nhưng khả năng kiềm chế Trung Quốc ở khu vực châu Á với chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn cần phải xem xét.

Tác động đối với quan hệ Mỹ-Trung

Cho dù là chiến lược “tái cân bằng” của Chính quyền Obama hay chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Trump, thì việc Mỹ điều chỉnh chiến lược châu Á-Thái Bình Dương đã lấy mối quan hệ Trung-Mỹ làm điểm cân nhắc chính.

Tác động của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đối với Trung Quốc và quan hệ Mỹ-Trung là mối quan tâm chung đối với nhiều học giả Trung Quốc. Một mặt, do thực tế rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn còn trong giai đoạn trứng nước, các học giả Trung Quốc tin rằng cho đến nay những tổn thất đối với Trung Quốc và quan hệ Mỹ-Trung vẫn còn hạn chế.

Giáo sư Zhao Kejin thuộc Đại học Thanh Hoa thì lạc quan hơn. Ông tin rằng trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Trump, Trung Quốc không hoàn toàn được Mỹ xác định là một đối thủ chiến lược, và vẫn có nhiều không gian cho đàm phán. Jia Wenshan, một nhà nghiên cứu đến từ Học viện Phát triển và chiến lược quốc gia thuộc Đại học Nhân dân, cũng chỉ ra rằng Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương không nhất thiết phải xung khắc với nhau. Ông lưu ý rằng “một số cơ quan truyền thông phương Tây đã coi chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, do Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản lên kế hoạch, là một đối thủ cạnh tranh của Sáng kiến ‘Vành đai và Con đường’”. Nhưng chừng nào việc thực hiện của Bộ Tứ tuân thủ nghiêm ngặt 3 nguyên tắc tham vấn, cùng xây dựng và chia sẻ do Trung Quốc đề xuất, thì chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mới có thể thực sự được coi là một phần không thể thiếu trong Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc.

Mặt khác, các khía cạnh cạnh tranh và đối đầu của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã khiến một số học giả Trung Quốc bi quan và lo ngại về tương lai của quan hệ Mỹ-Trung. Chẳng hạn, Wei Zongyou và các học giả khác tin rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ có tác động tiêu cực đến môi trường chiến lược xung quanh Trung Quốc ít nhất là trong ngắn hạn. Ding Dong, một nhà nghiên cứu cấp cao thuộc Viện nghiên cứu hòa bình và phát triển quốc tế, một trung tâm do Trung tâm Carter của Mỹ và Đại học giao thông vận tải Tây An đồng sáng lập, tin rằng sự chuyển đổi chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc có một tác động tiêu cực rõ ràng. Ông lập luận rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một phiên bản nâng cao của chiến lược “tái cân bằng” của Obama. Kết quả là, quan hệ Mỹ-Trung có thể hướng tới một kỷ nguyên “Chiến tranh Lạnh” mới trong những năm tới. Hơn nữa, một số học giả Trung Quốc tin rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương có thể đóng vai trò là đối thủ cạnh tranh với Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Với các khía cạnh kinh tế và an ninh quân sự cố hữu, chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương có thể được coi là cạnh tranh với “Vành đai và Con đường”. Sự cạnh tranh như vậy chắc chắn sẽ có hại cho quan hệ Mỹ-Trung.

Nhìn chung, mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau ở Trung Quốc khi đề cập đến khái niệm chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mới được đề xuất, đa số các học giả Trung Quốc có xu hướng coi nó như một chiến lược đối đầu được Mỹ sử dụng với hi vọng kiềm chế hoặc trấn áp sự trỗi dậy cuối cùng của Trung Quốc. Tuy nhiên, các học giả Trung Quốc không chắc chắn về tính hiệu quả trong tương lai của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì vấn đề hợp tác giữa Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc sẽ rất lớn. Do đó, hầu hết các học giả Trung Quốc đều đang áp dụng cách tiếp cận “chờ xem” và trì hoãn các đánh giá sâu hơn cho đến khi có nhiều bằng chứng hơn.