Monday, April 28, 2014

7. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ CÁCH TIẾP CẬN CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI HỘI NHẬP KHU VỰC ĐÔNG Á



Võ Hải Thanh
Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc - Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á



Phần 1

Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là một động lực đáng kể giúp Hàn Quốc đẩy mạnh chủ nghĩa hội nhập ở Đông Á theo hướng tiếp cận liên chính phủ tới xây dựng thể chế và quản trị. Trước đó, Hàn Quốc chủ yếu tập trung khai thác lợi ích quốc gia thông qua hợp tác Thái Bình Dương. Vì vậy, khi Thủ tướng Malaysia Mahathir đưa ra ý tưởng thành lập Nhóm Kinh tế Đông Á (EAEG) thì Hàn Quốc và Nhật Bản đã nghi ngờ về điều này và họ quan tâm nhiều hơn tới quan hệ kinh tế và chính trị mật thiết của họ với Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 đã làm thay đổi nhận thức này ở Seoul. Trước đây, mối quan tâm chủ yếu của Hàn Quốc tập trung vào Đông Bắc Á và các vấn đề an ninh được định hình bởi bối cảnh của Hàn Quốc, một quốc gia chia cắt dưới sự đe dọa thường trực từ phía Bắc, thì nay, tình hình kinh tế và chính trị đã thay đổi sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997. Một số nhận định cho rằng, nhờ có cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á mà nhà lãnh đạo Kim Dae-chung mới thắng cử tổng thống vào năm 1998. Trong giai đoạn này, chính quyền tổng thống Kim (1998-2002) là chính quyền đầu tiên của Hàn Quốc ủng hộ và thúc đẩy sáng kiến cộng đồng khu vực Đông Á. Park Young-june đánh giá rằng, Tổng thống Kim Dae-jung là nhà lãnh đạo Hàn Quốc tích cực nhất trong việc xây dựng các thể chế khu vực và một mạng lưới hợp tác. Ngay cả Nhật Bản và Trung Quốc cũng ghi nhận những đóng góp của Tổng thống Kim. Sự thay đổi này đã thể hiện rất rõ qua việc Seoul đưa ra một khái niệm mới về biên giới địa lý ở Đông Á dựa trên khung khổ ASEAN + 3 (APT) mà không bao gồm Mỹ cũng như các nước Thái Bình Dương khác như Úc, New Zealand. Điều này hàm ý rằng, Hàn Quốc phải xem xét vị trí “chủ nghĩa khu vực mở” của mình như nó đã được theo đuổi trong phạm vi khung khổ APEC mà đã bị thâu tóm phần lớn bởi Mỹ. Trong bối cảnh này, APT đã trở thành trụ cột của chủ nghĩa khu vực Đông Á với việc bao gồm 3 nước lớn nhất của Đông Bắc Á, chiếm 90% GDP toàn khu vực. Hàn Quốc ngay lập tức hưởng ứng tích cực khung khổ mới này và trong nhiệm kỳ tổng thống Kim Dae-jung nắm quyền, chính sách hội nhập khu vực đã được thúc đẩy rất tích cực. Chủ nghĩa khu vực Đông Á đã trở thành một trong các trụ cột chính của chính sách đối ngoại của Hàn Quốc, nó được xem như là một phương tiện hiện thực để thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng trong khu vực. Tổng thống Kim Dae-jung nhìn nhận vấn đề bán đảo Hàn và giải pháp có thể của nó như một phần của mạng lưới khu vực rộng lớn, bao gồm các nước láng giềng khu vực Đông Bắc Á, vì vậy, ông đã tập trung nhấn mạnh vào thể chế hóa khu vực bên cạnh Chính sách Ánh Dương hướng tới Triều Tiên. Nhờ đó, nền tảng của các cuộc đàm phán 6 bên cũng được thiết lập trong giai đoạn này. Đối với Tổng thống Kim, vấn đề hợp tác khu vực và thể chế hóa cần phải được song hành với những cơ hội cải thiện quan hệ Hàn Quốc – Triều Tiên.
Sáng kiến đáng chú ý nhất trong số các sáng kiến nỗ lực nhằm xây dựng Cộng Đồng Đông Á là việc thiết lập Nhóm Tầm nhìn Đông Á (EAVG) mà tổng thống Kim Dae-jung đã đưa ra tại cuộc họp thượng đỉnh APT 1998 ở Hà Nội, cùng với việc thiết lập Nhóm Nghiên cứu Đông Á (EASG), cho phép khu vực tư nhân và khoa học được tham gia vào việc tìm kiếm cách thức thúc đẩy hợp tác hơn nữa trong khối các nước APT. Nhóm nghiên cứu Đông Á đã đưa ra 26 gợi ý chính sách trên các vấn đề không chỉ có hợp tác kinh tế và tài chính mà còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, an ninh, môi trường, năng lượng, văn hóa, giáo dục, xã hội … EASG đã đệ trình bản báo cáo cuối cùng lên Hội nghị APT diễn ra tại Cambodia vào năm 2002, trong đó gợi ý những vấn đề liên quan tới EAVG và Hội nghị Đông Á mà vài năm sau đó đã trở thành hiện thực. Trong số 17 biện pháp ngắn hạn và 9 biện pháp dài hạn của báo cáo EASG, có một số biện pháp tập trung vào vấn đề thể chế hóa khu vực như sau:
- Thiết lập một Hội đồng Kinh doanh Đông Á;
- Thiết lập một Mạng lưới Thông tin Đầu tư Đông Á;
- Xây dựng một mạng lưới chuyên gia hàng đầu Đông Á;
- Thiết lập một Diễn đàn Đông Á;
- Thiết lập các chương trình giảm nghèo;
- Tăng cường các cơ chế hợp tác về các vấn đề an ninh phi truyền thống;
- Phối hợp giữa các thể chế văn hóa và giáo dục nhằm thúc đẩy một cảm nhận mạnh mẽ, thấu đáo về khái niệm Đông Á;
- Thúc đẩy các nghiên cứu Đông Á trong khu vực;
- Thiết lập một Khu vực Mậu dịch Tự do Đông Á;
- Theo đuổi nâng cấp Hội nghị ASEAN + 3 thành Hội nghị Đông Á;
- Thúc đẩy hợp tác môi trường hàng hải khu vực chặt chẽ hơn trên toàn bộ khu vực;
- Xây dựng một khung khổ cho các chính sách và chiến lược năng lượng và kế hoạch hành động.
Tiếp đến giai đoạn tổng thống Roh Moo-hyun nắm quyền, việc tập trung vào thể chế hóa khu vực đã hướng tới các nước láng giềng Đông Bắc Á của Seoul. Cách tiếp cận mới này không mâu thuẫn với các nỗ lực trước đó, như nhiều học giả Hàn Quốc đã chỉ ra, nhưng nó phản ứng lại với các mối quan tâm chiến lược và với sự cần thiết của thể chế hóa các quan hệ giữa các thế lực lớn của khu vực ở Đông Bắc Á, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Trong buổi lễ nhậm chức tổng thống, Roh Moo-hyun đã đưa ra ý tưởng “Sáng kiến Hợp tác Đông Bắc Á vì Hòa bình và Thịnh vượng” và còn nhấn mạnh vai trò của Hàn Quốc trong khung khổ này như một “trung tâm” ở Đông Bắc Á, tạo nên một Ủy ban Tổng thống đảm trách mục tiêu này dưới tên gọi ban đầu là “Trung tâm Kinh doanh Đông Bắc Á” vào năm 2003 và đổi tên vào năm 2004 thành “Sáng kiến Hợp tác Đông Bắc Á” nhằm mục tiêu thiết lập chính sách và thúc đẩy quản trị. Ngay từ những ngày đầu tiên nắm quyền, Tổng thống Roh đã đưa ra một thông điệp chiến lược rằng, Hàn Quốc nên trở thành một “cầu nối” kết nối các sức mạnh trên biển và lục địa, một trung tâm của các ý tưởng và mạng lưới liên khu vực, hợp tác xây dựng một cộng đồng khu vực hòa bình và thịnh vượng.
Sự chuyển đổi quan trọng này là phản ứng của Hàn Quốc đối với sự bế tắc trong cấu trúc sức mạnh khu vực nổi lên chủ yếu từ các chương trình ganh đua và cạnh tranh Trung – Nhật mà bao hàm hai quan điểm khác nhau về cách thức mà hội nhập Đông Á nên hướng tới. Hơn nữa, nhiều người cho rằng, chỉ có Seoul mới có thể đảm trách vai trò như một trung gian khu vực giữa Nhật Bản và Trung Quốc.
Trung Quốc và Nhật bản không mong muốn hợp tác về các vấn đề khu vực, với quan hệ song phương nóng lạnh thất thường đã kéo họ đi các hướng khác nhau trong việc xây dựng Cộng đồng Đông Á (EAC). Những mâu thuẫn chủ yếu của họ đã được nêu ra tại cuộc họp đầu tiên của EAS, khi Nhật Bản yêu cầu có sự tham gia của Úc và New Zealand nhưng Trung Quốc thì phản đối. Trong tình hình đó, có vẻ như vai trò cân bằng của sức mạnh trung gian như Hàn Quốc lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết nếu khu vực thực sự muốn hình thành EAC. Tuy nhiên, vẫn còn có sự nghi ngại rằng Hàn Quốc như một sức mạnh trung gian, trên thực tế đã không thành công trong việc khẳng định mình như một nhà lãnh đạo trong các vấn đề khu vực, bởi vì khu vực này bị chi phối bởi một loạt các sức mạnh lớn. Điều đó có nghĩa là Seoul vẫn còn gặp khó khăn trong việc gây ảnh hưởng đối với sự phát triển của cấu trúc hiện hữu ở khu vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Byung-Woon Lyou, Building the Northeast Asian Community, Indiana Journal of Global Legal Studies, Issue 2 Volume 11, 2004.
2. Han Sung-Joo, Korea, ASEAN, and East Asian Community, Korea University, 2009.
3. José Guerra Vio, Institutionalizing East Asia: South Korea’s Regional Leadership as a Middle Power,National Chengchi (Politics) University, Taiwan (NCCU), 2012.
4. Kim Young Chul and Chang Gun Park, The Financial Crisis and Regional Institutionalization in East Asia, 2006.
5. Randall S. Jones and Taesik Yoon, Enhancing The Globalisation of Korea, ECO/WKP, OECD Economics Department Working Papers, 2008.
Phần 2:
Kể từ khi lên nắm quyền năm 2008, tổng thống Lee Myung-bak dường như tiếp tục thực hiện cam kết của Hàn Quốc đối với khu vực và quá trình thể chế hóa với một sự quan tâm nhất định tới Đông Bắc Á cùng với duy trì ASEAN + 3 (APT) như một động lực chủ yếu để hướng tới hội nhập Đông Á. Trong thời gian này, EAS đã mời các thành viên khác ngoài khu vực nhằm cân bằng áp lực ảnh hưởng của Trung Quốc và sự cạnh tranh của nó với Nhật Bản. Tiếp tục với truyền thống của người tiền nhiệm xây dựng thương hiệu chính sách đối ngoại của Hàn Quốc với những cái tên ưa thích như "Ngoại giao Châu Á mới", ngụ ý việc mở rộng phạm vi ngoại giao của Seoul để đóng góp lớn hơn cho hội nhập khu vực và toàn cầu. Điều này càng rõ ràng hơn khi Hàn Quốc tham gia tích cực và nhiệt thành vào nhiều thể chế quốc tế như hội nghị G20 năm 2010. Như một phần của tầm nhìn “Hàn Quốc toàn cầu”, một cái tên đã được gắn cho Chiến lược An ninh Quốc gia của chính phủ đương thời, Seoul đang tìm cách phát triển sự nhận biết rộng rãi toàn cầu như một thành viên tích cực và phát triển của cộng đồng quốc tế cùng với việc đẩy mạnh hợp tác với Đông Nam Á, Trung Á, Ấn Độ, Úc và New Zealand như một cách để mở ra một ‘Kỷ nguyên Châu Á’ mới. Hơn nữa, những ưu tiên ngoại giao của chính quyền Tổng thống Lee là thực dụng và hiện thực, điều mà các đối tác chủ chốt và song phương được đánh giá cao hơn chủ nghĩa đa phương. Tuy nhiên, chủ nghĩa thực dụng này không có nghĩa là loại trừ lẫn nhau với chính sách láng giềng thân thiện của Hàn Quốc đang diễn ra và việc xây dựng một “Mạng lưới Hợp tác Đông Bắc Á”, nơi chủ nghĩa đa phương sẽ được thể chế hóa. Điều này vẫn là ưu tiên hàng đầu và trong nhiệm kỳ của Tổng thống Lee.
Trong bối cảnh này, việc tăng cường các cuộc Hội nghị Hợp tác Ba bên của nhóm Trung Quốc – Hàn Quốc – Nhật Bản (CKJ) là ví dụ về tầm quan trọng của Seoul đối với vấn đề thể chế hóa của khu vực Đông Bắc Á. Hội nghị thượng đỉnh ba bên này đã hình thành trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng Châu Á và sự sáng tạo ra khuôn khổ APT trong những năm gần đây đã được hợp nhất như một kênh chính cho đối thoại giữa ba thành viên chính của Đông Bắc Á (NEA), đưa Hàn Quốc vào trung tâm của việc định hình thể chế hợp tác giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Rõ ràng đối với các nhà hoạch định chính sách thì Seoul có nhu cầu lớn đối với tăng cường hợp tác ba bên giữa Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản. Điều này như một cách để nâng cao vị thế của khu vực Đông Á và vai trò trong cộng đồng quốc tế cùng giải quyết những thách thức chính mà Đông Bắc Á phải đối đầu.
Năm 2008 là năm có nhiều bước tiến trong hợp tác ba bên giữa Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Lần đầu tiên Hội nghị Ba bên đã được tổ chức ở tại lãnh thổ của một trong ba thành viên là ở Fukuoka Nhật Bản, độc lập hoàn toàn với các hội nghị APT. Tại hội nghị này, các nhà lãnh đạo ba nước đã thông qua một thỏa thuận chung, tiến hành trao đổi ở cấp cao thường xuyên hơn. Điều này đối với Seoul là rất có ý nghĩa, bởi Hàn Quốc đã từng gợi ý cần có những cuộc họp thường xuyên. Việc thông qua các thỏa thuận giữa Hàn Quốc-Nhật Bản và Hàn Quốc-Trung Quốc về hoán đổi tiền tệ mỗi gói 30 tỷ USD để đối phó với khủng hoảng toàn cầu đã phản ánh cam kết của 3 nước nhằm đưa nỗ lực chung thành hành động và Hàn Quốc đã được trao gửi sứ mệnh quan trọng này trong tiến trình thực hiện. Năm 2010, ba nước đã thông qua một chương trình nghị sự “Tầm nhìn 2020” về hợp tác ba bên, bao gồm triển vọng tương lai của khung khổ đa phương thông qua thiết lập một loạt các nhiệm vụ hành động cụ thể trên 5 lĩnh vực, bao gồm: Thể chế hóa và nâng tầm đối tác ba bên; Hợp tác kinh tế bền vững thịnh vượng chung; Hợp tác về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường; Thúc đẩy quan hệ thân thiện thông qua mở rộng trao đổi văn hóa và nhân văn; Nỗ lực chung cho ổn định và hòa bình quốc tế và khu vực.
Với hội nghị cấp cao lần thứ 4 diễn ra thành công trong năm 2011, cuộc đối thoại thường xuyên này còn bao gồm đối thoại cấp bộ trưởng về các vấn đề tương tự như văn hóa, ngoại giao, thương mại và môi trường, cùng với quyết định thiết lập một ban thư ký thường trực ở Hàn Quốc là một bước tiến đáng ghi nhận trong việc đưa Seoul vào trung tâm của quá trình này. Điều đó thực sự trở thành cơ sở trong cách tiếp cận của Hàn Quốc đối với thể chế hóa khu vực Đông Bắc Á. Về mặt liên kết lãnh đạo, hầu hết các học giả Hàn Quốc đều cho rằng, sự ủng hộ chủ nghĩa khu vực mở của Seoul có nhiều điểm tương đồng với các luận điểm của Tokyo hơn so với những quan điểm Đông Á duy nhất ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, nếu xem xét ở các cuộc họp và hội nghị mà Hàn Quốc tham gia cùng với Trung Quốc thì con số này là nhiều hơn so với số cuộc họp với Nhật Bản bàn về các vấn đề nền tảng song phương trong những năm gần đây. Seoul đang thực sự quan tâm tới quan hệ với Trung Quốc nhiều hơn với Nhật Bản. Ví dụ, năm 2010 Hàn Quốc đã tổ chức 24 cuộc họp cấp cao với Trung Quốc, với tần suất trung bình 2 cuộc họp một tháng trong khi chỉ có 16 cuộc họp trong năm với Nhật Bản, nhiều cuộc họp trong số đó diễn ra dưới các khung khổ đa phương khác. Điều này có thể xem như là một cách để cân bằng cán cân đồng minh của Nhật Bản cũng như Hàn Quốc với Mỹ, trong khi Trung Quốc (đối tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc) thì lại không phải là đồng minh của Mỹ, và vẫn là một nước trong khu vực có ảnh hưởng lớn tới Triều Tiên. Seoul có thể còn quan tâm nhiều hơn tới Bắc Kinh để có được sự ủng hộ cho tham vọng lãnh đạo khu vực của mình trong các vấn đề mang tính thực tế và thiết thực. Phản ứng của Trung Quốc đối với những sáng kiến của Hàn Quốc trong thể chế hóa khu vực có thể xác định mức độ thành công và tính hợp hiến của nó.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là, vì mối đe dọa từ Triều Tiên và tầm quan trọng chiến lược của đồng minh an ninh Hàn - Mỹ nên việc duy trì sự can dự của Mỹ vào khu vực vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu của Seoul trong cách tiếp cận hiện nay của họ đối với khu vực. Điều này được phản ánh qua việc tăng cường quan hệ đồng minh trong nhưng năm gần đây và sự ủng hộ tư cách thành viên của Mỹ trong các thể chế như ARF và EAS (các diễn đàn mang tính chủ nghĩa khu vực mở). Về thực chất, Chính phủ của Tổng thống Lee Myung-bak một mặt đặt niềm tin vào sự hợp tác giữa chủ nghĩa đa phương và chủ nghĩa khu vực Đông Á, nhưng mặt khác cũng đặt niềm tin vào các đối tác và quan hệ đồng minh song phương chiến lược, điều đã được thể hiện rất rõ qua tầm nhìn chiến lược của tổng thống Lee về một “Hàn Quốc Toàn cầu” “Global Korea”.
Quan điểm về hội nhập khu vực của nữ Tổng thống Hàn Quốc đương nhiệm hiện nay Park Geun-Hye về cơ bản không khác nhiều so với người tiền nhiệm. Bà muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác của Hàn Quốc với Trung Quốc và Nhật Bản, bởi vì mối quan hệ ba bên này mặc dù đã đạt được một số bước tiến đáng kể nhưng vẫn chưa thực sự như mong đợi, do còn tồn tại một số vấn đề về tranh chấp chủ quyền biển đảo, quyền khai thác tài nguyên, vấn đề tàu cá-ngư dân, cũng như những bất đồng trong nhận thức lịch sử…. Bà tiếp tục thúc đẩy FTA ba bên Hàn - Trung - Nhật và hợp tác quân sự với Nhật Bản. Hơn nữa, bà Park chú trọng quan hệ với Trung Quốc nhiều hơn so với người tiền nhiệm đã quá chú trọng quan hệ với Mỹ.
Chính quyền Tổng thống Park hiện nay có kế hoạch tăng cường và phát triển quan hệ với Mỹ thành một liên minh chiến lược toàn diện, nâng cấp quan hệ với Bắc Kinh thành một đối tác chiến lược quan trọng. Để giải quyết vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, Tổng thống Park đã kêu gọi Hàn Quốc-Mỹ-Trung Quốc đối thoại chiến lược ba bên và phát tín hiệu hợp tác phòng thủ với Trung Quốc. Liên quan đến hội nhập kinh tế khu vực, Tổng thống Park rất thận trọng khi đưa ra lời cam kết bằng cách hứa hẹn sẽ "quan tâm hơn" tới các đối tác xuyên Thái Bình Dương do Mỹ dẫn đầu (điều mà Trung Quốc đang rất lo ngại) cùng với việc thúc đẩy sự tham gia của Hàn Quốc trong quan hệ đối tác toàn diện kinh tế khu vực (RECP) của ASEAN.
Chính quyền Tổng thống Park cũng cam kết sẽ tích cực hơn trong việc thiết lập một hệ thống hợp tác đa phương Đông Bắc Á, thúc đẩy hợp tác kinh tế và xây dựng niềm tin trên bán đảo Hàn và Đông Bắc Á bằng cách loại bỏ các rào cản, xung đột với các cơ chế đa phương.
Chính phủ Park còn đề xuất một “Sáng kiến hòa bình và hợp tác ​​Đông Bắc Á”. Đây là một kế hoạch táo bạo bắt đầu từ khu vực an ninh phi truyền thống, nơi hợp tác là tương đối dễ dàng và mở rộng sang khu vực truyền thống bằng cách sử dụng cơ chế đa phương hiện có, bao gồm cả các cuộc đàm phán sáu bên. Hơn nữa, sẽ có sự hợp tác ba bên giữa Triều Tiên, Hàn Quốc và Nga, Triều Tiên, Hàn Quốc và Trung Quốc. Nói rộng hơn, hợp tác ba bên Á-Âu sẽ liên kết Hàn Quốc với ASEAN và EU./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Young Jong Choi, East Asian Regionalism and South Korea’s Strategy: Lessons from the Experience of Middle Power Activism, The Catholic University of Korea, 2010.
2. Prospects for Emerging East asian Cooperation and Implications for the United States, Joint U.S.-Korea Academic Studies, Volume 21, 2011.
3. The Optimum Size of East Asian Economic Integration and the Role of Korea, East Asia Integration Studies, July 2008.
4. Lim Soo-Ho, Park Geun-Hye’s Northeast Asia Policy: Challenges, Responses and Tasks, SERI Quarterly, April 2013

Nguồn: Website Viện nghiên cứu Đông Bắc Á: http://cks.inas.gov.vn/index.php?newsid=343

No comments: