Trong số ít những vấn đề đau đầu của thế giới hiện nay, tham vọng tìm kiếm bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông cần được đưa lên hàng đầu cùng với biến đổi khí hậu, thánh chiến hồi giáo và virus Ebola. Đây là một vấn đề vô cùng nan giải song nó đã trở thành thuốc thử quan trọng cho việc liệu trật tự quốc tế có thể dung hòa lợi ích của một “Trung Quốc đang trỗi dậy” hay không.
Mặc cho bản năng thận trọng vốn có của một vị tổng thống, người hiểu rõ rằng tham dự vào một cuộc chiến ở nước ngoài thì dễ hơn nhiều việc giành thắng lợi trong cuộc chiến đó, các nguy cơ mà hành động của Bắc Kinh gây ra đối với lợi ích sống còn của nước Mỹ đang đẩy Washington vào một cuộc đối đầu không thể tránh khỏi với Trung Quốc. Một vài năm trước, người ta vẫn coi vấn đề Biển Đông là một cuộc tranh cãi giữa các quốc gia ven biển về nguồn cá và tài nguyên đáy biển, và càng trở nên tệ hơn do thái độ ngang ngược từ phía Trung Quốc. Hiện tại đã rõ rằng Trung Quốc không quan tâm đến việc đàm phán để giải quyết tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng, mà chỉ chú tâm những điểm trong UNCLOS có lợi cho nước mình.
Washington đã phải gác lại giấc mơ về quan hệ đối tác toàn cầu với siêu cường mới nổi của Châu Á khi nhìn thấy khả năng Trung Quốc sẽ kiểm soát các tuyến đường biển huyết mạch. Theo Bill Hayton, Biển Đông, sẽ là “khu vực đầu tiên tham vọng của Trung Quốc đối đầu trực tiếp với quyết tâm chiến lược của Mỹ.”
Đây là cuộc đối đầu mà chúng ta cần phải hiểu rõ, và Hayton, phóng viên của BBC từng tác nghiệp ở Myanmar và Việt Nam, đã cung cấp cho chúng ta nội dung cốt truyện. Cuốn sách nhan đề Biển Đông: Cuộc chiến Quyền lực ở Châu Á, dựa trên các nghiên cứu kỹ lưỡng với văn phong trau chuốt, đã chính thức phát hành tại Anh vào cuối tháng 9 và Nhà xuất bản Đại học Yale sẽ phát hành tại Mỹ vào ngày 28 tháng 10. Cuốn sách được bán trên Amazon với giá 28 USD.
Cuốn sách dày 320 trang của Hayton chắc chắn sẽ được đem ra so sánh với một số tác phẩm gần đây trong cùng chủ đề, như cuốn Chảo dầu Châu Á: Biển Đông và Sự kết thúc của một Thái Bình Dương ổn định của tác giả Robert Kaplan. Đây là hai cuốn sách rất khác nhau. Ông Kaplan khái quát sơ lược về bản sắc dân tộc, lợi ích quốc gia và nỗi ám ảnh có chủ đích của các lãnh đạo Châu Á về trật tự. Theo ông Kaplan, tất cả đều là về sự cân bằng quyền lực, một cuộc cạnh tranh diễn ra “trong bối cảnh mới có phần ảm đạm của thế kỷ 21”. Đông Nam Á mà ông Kaplan nhắc đến là khu vực mà Trung Quốc trỗi dậy hướng tới việc đưa các nước chư hầu ngày xưa trở lại đúng quỹ đạo của họ và là nơi, nếu Washington thực dụng trong các đánh giá của mình, thì cần phải khéo léo nhường nhịn Bắc Kinh.
Ngược lại, Hayton đi vào giải thích sự việc. Ở chương mở đầu, tác giả nhẹ nhàng dẫn dắt độc giả đi qua quãng thời gian 5.000 năm, khi đó Biển Đông là một tài sản chung của thế giới và các cư dân Malay đầu tiên mới thực sự là người thống trị Biển Đông. Sau đó là sự trỗi dậy và suy tàn của các đế chế thương mại như: Phù Nam, Chămpa, Majahapit và Malacca. Khoảng năm 1400, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trước kỷ nguyên hiện nay, Trung Quốc có một khoảng thời gian ngắn trở thành cường quốc biển, khi nước này triển khai các hạm đội lớn tới Ấn Độ và Đông Châu Phi, trước khi hướng sự tập trung trở lại đất liền. Người Châu Âu trong cuộc tìm kiếm các loại gia vị, đồ sứ và lụa cũng đã thực hiện các chuyến thám hiểm vào những năm 1500. Tây Ban Nha đã thiết lập vị thế thống trị ở quần đảo Philippines; và ba thế kỷ sau, Pháp ở Đông Dương và Anh tại các bang Malay đã tạo ra những thuộc địa của riêng mình, và thậm chí đã buộc Trung Quốc phải khuất phục trước chính sách ngoại giao pháo hạm.
Người Châu Âu, với ý định phân chia ranh giới và thiết lập vùng đặc quyền lãnh thổ, vô tình đặt nền móng cho phong trào chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành, tự ý thức ở những khu vực, vào giữa thế kỷ 20, đã trở thành cựu thuộc địa và cựu nhượng địa của họ. Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Trung Quốc - cả chính phủ Đài Loan và Bắc Kinh - hiện nay đều đưa ra yêu sách chủ quyền chồng lấn ở một vùng biển mà quá khứ đóng vai trò kết nối, thay vì ngăn cách người dân trong khu vực. Tất cả các bên tranh giành cắm cờ lên trên các rạn san hô, đá ngầm và đảo nhỏ (các “thực thể” nói chung) nằm rải rác trên vùng biển rộng lớn này.
Câu chuyện thêu dệt đầy màu sắc của Hayton có sức hấp dẫn riêng, nhưng điều quan trọng mà ông cẩn thận đúc rút từ đó là: Yêu sách lịch sử của Trung Quốc đối với vùng biển phía nam của Hồng Kông và đảo Hải Nam đa phần là vô giá trị. Bằng chứng của Trung Quốc đơn giản không thể đứng vững trước biên niên sử thời chúa Nguyễn của Việt Nam. Vào khoảng năm 1750, các chúa Nguyễn hàng năm đều phái người đi đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người Việt thực hiện các chuyến đi này chủ yếu để thu gom đồ vật từ các con tàu đắm, chắc chắn là như vậy, nhưng họ đã lưu lại các dấu mốc và ghi chép sự việc cẩn thận.
Trớ trêu là, người Việt Nam đã không còn chỉ dựa về các yêu sách lịch sử của mình. Thay vào đó, họ dựa vào những luật lệ quy định việc phân chia các vùng biển trong UNCLOS có hiệu lực từ năm 1994. Philippines và Malaysia cũng làm tương tự như vậy. Luật pháp quốc tế được coi là chỗ dựa của các quốc gia nhỏ bé và yếu ớt. Nhưng với một quốc gia hùng mạnh, mong muốn xóa bỏ sự sỉ nhục trong quá khứ, thì luật pháp quốc tế thường được xem là sự phiền toái. Giới chức Bắc Kinh có lẽ nhận biết được lập trường pháp lý yếu ớt của mình nên Trung Quốc có thể lập luận rằng nước này nhẽ ra đã thống trị các vùng biển gần của họ nếu như không bị Phương Tây và Nhật Bản áp bức. Đối với một người dân Trung Quốc bình thường, thông điệp đó hết sức đơn giản. Các giáo viên và phương tiện truyền thông đại chúng đã nhồi nhét vào đầu họ rằng chủ quyền của Bắc Kinh đối với các vùng biển và các quần đảo phía Nam là “không thể thay đổi” và “không thể tranh cãi.”
Các nhà phân tích – trong đó có Hayton và tác giả bài viết này – khó có thể lý giải tại sao Bắc Kinh lại hành động cao ngạo, coi thường sự tôn trọng mà thế giới dành cho họ, đến mức gần đây họ đã phải cố gắng rất nhiều để giành lại. Ông Hayton cho rằng chính giới lãnh đạo hải quân, các công ty dầu khí và chính quyền địa phương đã theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập khá quyết đoán, kéo theo những nhà lãnh đạo cấp cao không muốn thể hiện sự yếu đuối trong vấn đề lãnh thổ. Lập luận trên không thuyết phục lắm trong thời kỳ nắm quyền của ông Tập Cận Bình; bởi những năm gần đây chiến thuật của Trung Quốc đã được phối hợp một cách nhịp nhàng rất đáng chú ý.
Các nhà phân tích khác thì cho rằng nguyên nhân bắt nguồn từ nhu cầu năng lượng khổng lồ của siêu cường đang trỗi dậy này. Chắc chắn sự tăng trưởng tương lai của Trung Quốc sẽ phụ thuộc vào việc cung cấp đủ hai nguồn năng lượng dầu mỏ và khí đốt. Tuy nhiên, có rất nhiều nghi ngờ về việc Biển Đông được là xem “Vịnh Ba Tư thứ hai” như cách giới truyền thông Trung Quốc vẫn gọi. Thêm nữa, với nguồn ngoại tệ dồi dào, Trung Quốc không khó khăn để tìm nguồn cung ngoài khu vực, cũng như không nước nào có lợi khi can thiệp hành động thương mại đó.
Các nhà quan sát phương Tây, không tìm hiểu kỹ vấn đề, có xu hướng coi yêu sách và tham vọng của Trung Quốc, giống như các bên yêu sách khác. Ông Kaplan đã đi xa hơn, coi luật pháp quốc tế về cơ bản không thích hợp với tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, yêu sách chủ quyền lãnh thổ bành trướng của Trung Quốc và các chiến thuật nước này đang sử dụng để đạt được mục tiêu là rất quan trọng đối Mỹ và các quốc gia khác có lợi ích trong việc duy trì một trật tự thế giới hòa bình, dựa trên luật pháp và tự do thương mại. Các nhà phân tích này cho rằng một “Trung Quốc trỗi dậy” sẽ chỉ chơi theo luật khi các luật lệ đó phù hợp với lợi ích của nước này. Và như kết luận của Hayton, điều đó có nghĩa là khu vực trải rộng trên 3,5 triệu kilômét vuông này - “biển kín” lớn nhất thế giới - “trở thành nơi mà bản chất đối lập giữa Trung Quốc và Mỹ buộc họ phải đi đến xung đột.”
Mỗi năm trôi qua, rủi ro càng tăng lên. Một động lực không ổn định chắn chắn sẽ thúc đẩy Mỹ và đồng minh chính của nước này ở Châu Á, là Nhật Bản tăng cường hỗ trợ cho Việt Nam và Philippines. Trung Quốc chưa có dấu hiệu sẽ dừng bước. Chúng ta vẫn chưa thể thấy một kết thúc tốt đẹp ở vùng biển đầy sóng gió này./
David Brown là một nhà cựu ngoại giao Mỹ, chuyên viết về các vấn đề Đông Nam Á và Việt Nam. Bải viết của ông được đăng lần đầu tiên trên trang Asia Sentinel.
Người dịch: Đinh Anh
Hiệu đính: Minh Ngọc
http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/4396-im-sach-bin-ong-cuc-chin-quyn-lc--chau-a
No comments:
Post a Comment