Friday, June 20, 2014

35. TRUNG QUỐC TRONG TRẬT TỰ THẾ GIỚI


035_pau611954_03-305.jpg
Tàu khu trục Thanh Đảo thuộc Hải quân Trung Quốc tại một cảng ở thành phố Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, ngày 27 tháng 02 năm 2012.
AFP PHOTO

Vị thế đã thay đổi

Tại Diễn đàn toàn cầu Standard Chartered hôm 20/3/2013 tại Singapore vừa qua, ông Lý quang Diệu – một người Hoa, một người cực kỳ nổi tiếng vì vai trò của ông trong việc hình thành quốc gia Singapore và sự thịnh vượng của nó. Ông còn là một chuyên gia kinh tế, một nhà chính trị và chiến lược lớn được thế giới nể trọng, đôi lúc được “thần tượng hóa.”
Tại diễn đàn trên ông đưa ra nhận định là trong vòng 20 đến 30 năm tới sẽ không có chuyện đối đầu Trung - Mỹ.
Ông còn nói thêm “Trước đây Liên xô và Mỹ cạnh tranh nhau để giành lấy vị trí siêu cường hàng đầu. Nhưng Trung Quốc chỉ hành động dựa trên lợi ích quốc gia. Trung Quốc không có ý muốn thay đổi thế giới.”
Dư luận đồng ý với một phần nhận định của ông, nhưng mọi người trông đợi ở ông một “giải trình” hơn thế để làm sáng tỏ mối quan hệ Mỹ - Trung vốn vô cùng phức tạp và một tiên liệu xa hơn về mối quan hệ này.
Ví dụ như 20 - 30 năm nữa quan hệ Mỹ - Trung lúc đó sẽ ra sao và diện mạo của thế giới lúc đó như thế nào khi tương quan lực lượng Mỹ - Trung đã thay đổi?
Có một nguyên tắc bất di dịch trong mọi quan hệ chi phối con người và vạn vật, đó là khi tương quan lực lượng thay đổi thì trật tự cũng thay đổi, cho nên nhận định “Trung Quốc không muốn thay đổi thế giới” là rất khó hiểu vì tự thân sự lớn mạnh vượt trội và áp đảo của Trung Quốc đã làm trật tự thế giới thay đổi rồi.
Một nước Trung hoa chậm tiến, nghèo đói trong thập niên 50- 60 của thế kỷ 20 chỉ giữ một vị trí khiêm tốn trong trật tự quốc tế là điều đương nhiên.
Thế giới lúc đó bị chi phối bởi hai Siêu cường là Mỹ và Liên xô và ở một mức độ nào đó tương đối khiêm tốn là của các cường quốc khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật
Đến năm 1964 Trung Quốc có vũ khí hạt nhân và vị thế của Trung Quốc đã thay đổi. Trung Quốc là thành viên của Câu lạc bộ các cường quốc hạt nhân.
Sau đệ nhị Thế chiến đã hình thành hai khối đối đầu Đông- Tây (Nato- Warzsawa). Lãnh đạo hai khối là Mỹ và Liên xô.
Lúc này kinh tế các nước Âu châu suy thoái nghiêm trọng, để phục hưng kinh tế toàn cầu, đặt nền tảng cho an ninh Châu Âu, Mỹ tiến hành kế hoạch Marshal. Bóng ma “Chiến tranh lạnh” đã ẩn tàng trên thế giới.
Trong thập niên 50s tương quan lực lượng giữa Thế giới Tự do và Chủ nghĩa CS tiếp tục thay đổi với ưu thế nghiên về các nước CS, chủ nghĩa CS lúc này có thêm nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa làm cho thế và lực của chủ nghĩa CS thêm lớn mạnh.
Chỉ một năm sau khi ra đời nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tham dự cuộc chiến tranh Liên Triều với cả triệu binh sĩ Chí nguyện quân.
Điều đáng nói ở đây là một nước Trung hoa Cộng sản đầy tham vọng đã thể hiện mình trong tranh chấp khu vực và quốc tế, báo hiệu một cục diện chính trị mới đang hình thành tuy mong manh.
Sang thập niên 60s tuy trong nội bộ của chủ nghĩa CS đã hình thành sự phân liệt vì mâu thuẩn giữa Liên xô và Trung Quốc, nhưng cả hai nhà nước CS này cùng có một điểm chung : đó là chủ trương bành trướng chủ nghĩa CS ra khắp thế giới, mà có người gọi nó là “xuất khẩu cách mạng”.
Để tranh giành ảnh hưởng và quyền lực với Hoa kỳ và thế giới Tự do, Liên xô và TC hổ trợ tối đa cho cái gọi là “Phong trào giải phóng dân tộc”.
Các lực lượng võ trang CS hoạt động khắp thế giới và chịu sự chi phối tư tưởng của hai đàn anh.
Các đảng CS và lực lượng võ trang của họ đe dọa thế giới Tự do bằng những hoạt động tấn công khủng bố, tuyên truyền và phá hoại.
001_GR308262-250.jpg
Bản đồ hình lưỡi bò do TQ tự công bố nhằm chiếm trọn biền Đông. AFP photo.
Tại Đông Nam Á lực lượng CS phát triển rất nhanh và rất hùng mạnh có mặt khắp nơi từ Việt Nam đến Lào, Campuchia, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân.
Để đối phó và ngăn chặn làn sóng CS đang hoành hành, Hoa Kỳ thực hiện học thuyết Domino.Việt Nam Cộng hòa trở thành tiền đồn chống Cộng của Hoa Kỳ tại Đông nam Á.
Năm 1965 Mỹ đổ quân ồ ạt vào Miền Nam VN, và cuộc chiến đẫm máu kéo dài suốt 20 năm, tất cả các bên tham chiến đều tổn thất lớn về nhân mạng và chịu sự tàn phá khủng khiếp về kinh tế - xã hội, nhất là phía Bắc Việt.
Trong cuộc chiến này người Mỹ đã không chủ trương chiến thắng CS Miền Bắc để chấm dứt chiến tranh, Việt Nam Cộng hòa như một bên tham chiến bị trói tay, chỉ được quyền tự vệ mà không có một chiến lược để giành thắng lợi toàn cuộc.
Sách lược chủ bại của người Mỹ đã kích động tham vọng của CS Bắc Việt trong mưu đồ thôn tính Miền Nam.
Cuộc chiến tranh tự vệ không có thắng lợi cuối cùng đã làm nản lòng quân đội VNCH và người dân Miền Nam, theo tôi đây là nguyên nhân chính dẫn đến những ý tưởng chấm dứt cuộc chiến bằng bất cứ giá nào của người dân Miền Nam. Điều này đã được những người CS khai dụng tối đa, cuối cùng thì VNCH bị bức tử
Xương máu của người dân Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới đổ xuống để tạo nên một tương quan lực lượng mới có lợi cho chủ nghĩa CS.
Cuối thập niên 60s tương quan lực lượng đã thay đổi, nên trật tự thế giới cũng phải thay đổi, TC giờ đây trở thành một thế lực mới đủ sức để  “tam phân thiên hạ”, hình thành thế chân vạc như chúng ta đã thấy.
Thập niên 70s, thế giới tiếp tục chứng kiến cuộc đối đầu giữa hai khối Tự do và CS,  cuộc đối đầu này có lúc đẩy hai siêu cường Mỹ - Liên Xô đến bên bờ vực của chiến tranh nguyên tử.
Trung Quốc khôn khéo đứng chọn thế “tọa sơn quan hổ đấu” vừa hô hào chống Mỹ vừa to tiếng chống Liên xô, Trung Quốc gọi Mỹ và Liên Xô là “đế quốc”, còn Trung Quốc là nước của “thế giới thứ ba” và là bạn của khối “Phi liên kết”.
Trung Quốc hy vọng sẽ là “ngư ông đắc lợi” khi cuộc chiến Mỹ - Liên Xô bùng nổ để Trung Quốc trở thành bá chủ.
Tuy không nhìn thấy được cảnh Mỹ - Liên Xô đánh nhau nhưng Trung Quốc cũng đã trở thành một nhân tố có thể làm thay đổi tương quan thế lực, một “lá phiếu” quyết định thắng bại trong quan hệ Mỹ - LX.
Bị ám ảnh bởi hiểm họa Liên xô, Mỹ tìm cách “chơi con bài Trung Quốc”. Kết quả của sách lược này là sự ra đời của Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972. Trung Quốc trở thành đối tác của Hoa kỳ tại châu Á Thái Bình Dương.
Năm 1976 Mao trạch Đông chết, một nhân vật CS đầy thủ đoạn và một nhà chiến lược đại tài lên thay đó là Đặng Tiểu Bình.
Để cho Mỹ và Phương Tây tin rằng Trung Quốc thực tâm theo đuổi sự hợp tác đôi bên cùng có lợi và ngăn chận sự bành trướng của Khối CS theo Liên xô. Trung Quốc tự xưng là “Nato phương Đông”. Đặng Tiểu Bình sang Hoa Kỳ để tìm kiếm sự ủng hộ và đầu tư cho nền kinh tế đang yếu kém của Trung Quốc.
Năm 1979 Trung Quốc xâm lược Việt nam nói là để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Có nhiều lý do để Trung Quốc trừng phạt VC, vì Trung Quốc coi VC là “tên học trò phản phúc”, “ăn cháo đá bát” khi rời bỏ Trung Quốc mà kết thân với Liên Xô, “đổi bạn thành thù”, xóa sổ Khmer Đỏ một học trò thân tín của Trung Quốc.
Còn một lý do nữa để Trung Quốc đánh VC là chứng minh cho MỸ và Phương Tây thấy rằng Trung Quốc đã đoạn tuyệt với khối CS Liên Xô.
Để tưởng thưởng cho việc “xoay trục” này của Trung Quốc, Mỹ và Phương Tây đã mở cửa thị trường cho hàng hóa Trung Quốc, viện trợ và đầu tư ồ ạt để kinh tế Trung Quốc cất cánh những năm sau đó.
Nhưng thắng lợi mang tầm vóc chiến lược mà Trung Quốc đã đạt được trong ván bài này là thay thế cho Trung Hoa Dân quốc nắm giữ chiếc ghế hội viên thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Kể từ đây thế và lực của Trung Quốc đã thay đổi, trở thành một trong những trung tâm quyền lực có tiếng nói và ảnh hưởng quyết định trong bức tranh toàn cảnh của thế giới. Thành quả to lớn này thuộc về Đặng Tiểu Bình, một chiến lược gia có viễn kiến và mưu lược.
Đặng là ông tổ của chủ nghĩa cộng sản thực dụng mà ngày nay đã trở nên phổ biến tại Trung Quốc và Việt Nam với câu nói nổi tiếng “mèo trắng, mèo đen không quan trọng miễn là bắt được chuột”.
Đặng cũng đã hình dung về một trật tự thế giới khi Trung Quốc trỗi dậy và những hệ lụy của sự trỗi dậy này đối với Trung Quốc và thế giới. Đặng đã để lại “cẩm nang” cho những nhân vật lãnh đạo kế tiếp sau Đặng, đó là sách lược “thao quang- dưỡng hối”.

“Chiến tranh giữa các vì sao”

035_pau705177_07-250.jpg
Tàu đánh cá Trung Quốc neo đậu tại một bến cảng ở thành phố Ôn Lĩnh ngày 16-09-2012. AFP photo.
Đặng là một nhà chiến lược biết ẩn mình chờ thời, biết tiến biết thối, biết mình biết người và tiên liệu được thời cuộc. Là một nhà chính trị biết tạo thời thế. Trung Quốc dưới thời Đặng và cả bây giờ không phải là quân cờ, không phải là quan khách mà là một người chơi cờ, Đặng đã đưa Trung Quốc từ bóng tối ra ánh sáng để tham dự vào cuộc chơi quốc tế, tạo lập trật tự quốc tế sao cho trật tự đó phục vụ tham vọng Đại phục hưng của một nước Trung Hoa.
So với Lý Quang Diệu, Đặng Tiểu Bình là một kỳ thủ, còn Lý Quang Diệu chỉ là khách xem đánh cờ. Điều này bắt nguồn từ sự khác biệt giữa hai nước, một bên là nhà nước Trung Hoa vĩ đại, bên kia là một Singapore nhỏ bé và tầm vóc thực sự giữa Đặng và Lý cũng khác nhau.
Hiểu được nhu cầu chiến lược và tâm lý của Mỹ và Phương Tây, Đặng đã thu phục được niềm tin của họ một cách ngoạn mục. Người Mỹ cứ nghĩ rằng họ đang “chơi con cờ Trung Quốc”, còn Trung Quốc tương kế tựu kế đã đạt được những gì mình muốn.
Trước đây Hoa Kỳ và Phương Tây lo lắng vì hiểm họa của chủ nghĩa Phát xít nên họ không nhận diện được một mối hiểm họa khác là chủ nghĩa CS đang tiềm tàng và trỗi dậy.
Khi Liên xô, Đông Âu và chủ nghĩa CS được nhận diện là hiểm họa mới của thế giới, Mỹ và Phương Tây liền “chơi con bài Trung Quốc” mà không nhận thức được rằng TC còn nguy hiểm hơn chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa CS nhiều lần.
Trục Phát xít gồm ba quốc gia hạng trung, dân số ít tài nguyên vật chất và nhân lực rất hạn chế, trong khi đó cuộc chiến quy ước đòi hỏi sức người sức của rất nhiều, nhất là nhân lực, đây chính là “tử huyệt” của Trục Phát xít nếu theo đuổi một cuộc chiến lâu dài.
Còn Liên xô và Đông Âu là một khối quân sự mạnh nhờ thủ đắt vũ khí hạt nhân, nhưng “tử huyệt” của khối CS là nền kinh tế tập trung bao cấp không hiệu quả và nghèo nàn nên đã “hụt hơi” khi bước vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ và Phương Tây giàu có hơn nhiều với nền kinh tế sinh động phát triển cao biết tự điều chỉnh để hoàn thiện.
Thập niên 80s Tổng thống Ronald Reagan tung ra học thuyết “chiến tranh giữa các vì sao”. Với tầm nhìn chiến lược và sức mạnh kinh tế nước Mỹ đã đánh bại khối Xô viết bằng cuộc chạy đua vũ trang cực kỳ tốn kém trong mọi lĩnh vực vũ trang, vũ trụ, công nghệ máy tính. Mỹ đã đánh vào “tử huyệt” của chế độ Xô viết, đó là nền kinh tế bất hợp lý, nghèo nàn và phản khoa học.
Các cuộc chạy đua về vũ khí tầm xa, tên lữa đạn đạo, máy bay tàng hình và khoa học vũ trụ đã đẩy chế độ Xô viết vào khánh tận, cộng với gánh nặng của sự trợ giúp quá lớn cho các chế độ CS độc tài và các lực lượng vũ trang CS nổi dậy khắp nơi trên thế giới, nhất là việc xâm lược Afghanistan 1979-1989 đã hút cạn nguồn lực của Liên xô.
Kết quả của cuộc chạy đua này là nhà nước Liên Xô sụp đổ năm 1991.
Thắng lợi của Thế giới Tự do đối với Khối CS là thắng lợi của nền kinh tế thị trường năng động so với nền kinh tế tập trung bao cấp.
Đặng tiểu Bình đã nhận thức được điều này.
Tháng 6 năm 1989 tại TQ đã xảy ra một sự kiện quan trọng: Cuộc biểu tình của sinh viên và trí thức tại quảng trường Thiên An Môn để đòi hỏi cải cách theo hướng dân chủ hóa.
Người dân sống trong các chế độ độc tài (nhất là độc tài CS) luôn khao khát tự do - dân chủ, nhưng sự khao khát này luôn bị kìm chế và đè bẹp bởi guồng máy đàn áp khổng lồ. Người Trung Hoa là một dân tộc làm cách mạng, có truyền thống đấu tranh chống bất công và áp bức, họ không thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới, và lần này người Trung Hoa đã đi trước các dân tộc Đông Âu, nhưng họ không may mắn như Đông Âu, CS Trung Hoa do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo đã chọn lựa giải pháp đối đầu với người dân để bảo vệ chế độ độc tài, họ đã sử dụng đến quân đội để tắm máu người dân tay không tất sắt bất chấp sự khuyến cáo của cộng đồng quốc tế.
Có đến hàng ngàn người thiệt mạng, hàng chục ngàn người bị thương hàng trăm người bị bắt và phải chịu những bản án nặng nề. Một số người ít ỏi may mắn đào thoát được sang Hồng Kông và sang tỵ nạn tại Hoa kỳ
Sau sự kiện Thiên An Môn Mỹ và Phương Tây áp dụng lệnh cấm vận vũ khí với Bắc Kinh.
Với sự kiện Thiên An Môn, ý tưởng của những học giả và những chính trị gia chủ trương rằng kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến dân chủ đã phá sản.
Mấy tháng cuối cùng của năm 1989 các nước Đông Âu chuyển mình, cuộc Cách mạng nhung tại các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Bulgaria, Romania, Albania đã dẫn đến sự tan rã hoàn toàn khối CS Đông Âu và Khối quân sự Warszsawa. Thế giới chào đón tin này với tràn đầy hy vọng về một kết thúc có hậu cho nhân loại ít nhất là tại Châu Âu.
Năm 1991 xảy ra cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, trong cuộc chiến này Mỹ đã phô diễn cho thế giới thấy sức mạnh vô địch của mình với những phương tiện và khí tài chiến tranh hiện đại nhất, khái niệm về chiến tranh công nghệ cao trở nên phổ biến trên toàn cầu, nó làm choáng váng cả thế giới nhất là Trung Quốc và các chế độ độc tài.
Với hai sự kiện quan trọng diễn ra trong năm 1991 (Liên Xô sụp đổ và cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất) Trung Quốc đã nhận thức nhu cầu thay đổi nền kinh tế là mang tính sống còn của chế độ và tương lai một nước Trung Hoa trong trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo.
Việc nhà nước Liên bang Nga ra đời thay thế cho Liên Xô trên bàn cờ chính trị quốc tế mở ra cơ hội đối thoại và hợp tác Nga - Mỹ và Phương Tây.
Một trật tự thế giới mới hình thành có lợi cho Thế giới tự do, xu thế hòa bình và dân chủ hóa toàn cầu bắt đầu khởi động với sự tan rã và giải giới của các lực lượng võ trang CS ở khắp nơi, rõ nét nhất là tại khu vực Đông Nam Á.
Các đảng CS và lực lượng phiến quân đã giải thể và ra đầu thú tại Thái Lan, Mã Lai Á, Nam Dương. Tại Cambodia cũng đạt được một giải pháp hòa bình giữa các phe lâm chiến trước đó không lâu.
Trung Quốc tiếp tục quá trình cải cách kinh tế sâu rộng và chính sự cải cách này đã giúp cho kinh tế Trung Quốc phát triển ồ ạt, không lâu sau đó Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới.
Đến năm 1995 Mỹ và Phương Tây chính thức không còn coi chủ nghĩa CS là hiểm họa của thế giới nữa, Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hà Nội, đàm phán để mở đường cho Trung Quốc gia nhập các định chế kinh tế và tài chính quốc tế.
Năm 1996 xảy ra khủng hoảng trên eo biển Đài loan, Trung Quốc đe dọa sử dụng sức mạnh quân sự để tái thống nhất Trung Hoa, can thiệp vào cuộc bầu cử dân chủ tại Đài loan, Mỹ phải tỏ thái độ bằng cách gởi hai hàng không mẫu hạm đến đây để răn đe và duy trì trật tự nhưng lập trường của Mỹ về Trung Quốc vẫn không thay đổi.
Năm 1998 Mỹ cùng khối Nato oanh kích Liên bang Nam tư với lý do bảo vệ người dân Kosovo.
Việc Mỹ và Nato oanh kích Nam tư đã làm tan vỡ quan hệ vốn nhiều hiềm nghi giữa Mỹ-Nato và Nga. Đẩy Nga vào thế thù địch với Phương Tây.
Cuộc chiến vì Kosovo kết thúc với việc Liên bang Nam tư thiệt hại nặng nề, chấp nhận rút quân khỏi Kosovo và một nhà nước Kosovo ra đời với sự công nhận của Mỹ và Phương Tây, việc này làm Nga bị tổn thương nghiêm trọng, ảnh hưởng của Nga cũng bị đẩy ra khỏi khu vực tiếp theo sau việc chế độ Milosevic bị lật đổ và Liên bang Nam Tư tan rã.
Việc Milosevic bị lật đổ và Liên bang Nam Tư tan rã sau đó như giọt nước tràn ly biến quan hệ Mỹ - Nato và Nga vốn nhiều nghi kỵ đã trở thành đối đầu.
Không biết Kosovo quan trọng với Mỹ và Phương Tây đến mức độ nào mà họ đã hy sinh mối quan hệ với Nga, một mối quan hệ quan trọng nhất trong bang giao quốc tế của Mỹ và Phương Tây, mối quan hệ mang tính quyết định cho an ninh toàn cầu, và mối quan hệ này cũng góp phần cho việc thăng tiến dân chủ khắp thế giới mang đến cho Khối Tự do thế thượng phong so với những quốc gia CS còn lại và những chế độ độc tài khác.
Sự hợp tác từ phía Nga giúp Mỹ và Phương Tây giải quyết nhiều hồ sơ quan trọng thuận lợi hơn là một nước Nga thù địch.
Tương quan lực lượng lại thay đổi khi Nga trở thành đối trọng với Mỹ và Nato, điều này hoàn toàn không có lợi cho nền hòa bình thế giới và sự thăng tiến dân chủ toàn cầu.
Việc Boris Yeltsin chọn Vladimir Putin (một trùm tình báo KGB cũ) làm người kế thừa mình có lẽ là cách mà Boris Yeltsin phản ứng lại với Mỹ và Nato.
Một nước Nga dân chủ non trẻ đã bị xóa sổ, một nhà nước độc tài tham nhũng và toàn trị mang màu sắc mafia ra đời.
Trung Quốc rất mãn nguyện khi có được một đồng minh thời cuộc là Nga trên bàn cờ chính trị quốc tế.
Nga và Trung Quốc đã liên kết với nhau để chống lại Mỹ và Phương Tây trên những hồ sơ quan trọng của thế giới như việc phát triển vũ khí hạt nhân tại I-ran và Bắc Triều tiên và hiện nay là cuộc khủng hoảng tại Syria.

Siêu cường?

035_pau501998_05-305.jpg
Một chi nhánh của Viện Khổng tử Trung Quốc quảng bá văn hóa tại thành phố Blagoveshchensk, Nga hôm 22/5/2011. AFP photo.
Để xác lập một cực đối trọng với Mỹ và Nato, Nga - Trung đã kêu gọi các nước Trung Á là sân sau của Nga hình thành Hiệp ước Thượng hải - SCO gồm Nga, Trung Quốc, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan.
Nga và Trung Quốc còn là đối tác chiến lược của nhau khi nền kinh tế Trung Quốc cần nhiều nguyên- nhiên liệu và Nga là quốc gia xuất khẩu cần thị trường, trao đổi thương mại đã nhanh chóng tăng lên gần 100 tỷ Mỹ kim trong năm 2012, và hứa hẹn sẽ lên đến 200 tỷ Mỹ kim trong năm 2015.
Nga còn là nhà cung cấp cho Trung Quốc những khí tài quân sự hiện đại giúp Trung Quốc thủ đắt được công nghệ quân sự tiên tiến của Nga tạo tiền đề để Trung Quốc vươn lên nhanh chóng tìm kiếm vị thế một Siêu cường.
Nước Mỹ sau hai nhiệm kỳ của tổng thống Bill Clinton là một siêu cường lãnh đạo thế giới không đối thủ về mọi mặt, có thể đây là điều làm cho giới lãnh đạo Mỹ trở nên quá tự tin.
Tháng 4 năm 2001 đã xảy ra va chạm giữa Mỹ và Trung Quốc trong vụ đụng độ trên không giữa một máy bay do thám của Mỹ và hai máy bay chiến đấu Trung Quốc, kết quả của lần cọ xác này là một máy bay Trung Quốc bị rơi và một phi công tử nạn, máy bay do thám Mỹ bị thương phải đáp khẩn cấp xuống Hải Nam.
Cuộc khủng hoảng lần này được phía Trung Quốc xử lý “khôn khéo” chứng tỏ họ biết nhẫn nhục để chờ đợi thời cơ.
Ngày 11/09/2001 Mỹ bị bọn khủng bố tấn công làm rung chuyển cả nước.
Với tâm trạng bị thách thức và bất an sau vụ  khủng bố Mỹ đã tấn công Afghanistan, đánh bật Taliban ra khỏi thủ đô Kabul, truy đuổi mạng lưới khủng bố Alqueda và ông trùm Bin Laden tận hang cùng ngõ hẻm.
Mỹ đổ quân vào Afganistan giúp xây dựng chính quyền mới, làm thay đổi cuộc sống của người dân Afghanistan nhất là phụ nữ và trẻ em gái.
Mỹ và Phương Tây đã giúp Afghanistan xây dựng cơ sở hạ tầng và khôi phục kinh tế, nhưng tất cả những gì họ làm cho đất nước này không thay đổi được quan điểm của phe Hồi giáo cực đoan và cuộc chiến vẫn tiếp diễn.
Mỹ và đồng minh bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh chống du kích không mấy hiệu quả, tốn kém và kéo dài hơn cả cuộc chiến tại VN, tổn thất nhân mạng không quá nhiều như chiến tranh VN nhưng cũng đủ làm người Mỹ nản lòng.
Đến năm 2003 Tổng thống George Bush và cánh Diều hâu quyết định mở cuộc chiến chống Iraq với lý do Saddam Hussein tàng trử và chế tạo vũ khí nguyên tử và hóa học.
Saddam Hussein bị lật đổ nhưng không tìm thấy vũ mà Mỹ cáo buộc như một lý do để tiến hành chiến tranh.
Về mặt đạo lý việc lật đổ một nhà nước độc tài tàn bạo là đúng và rất đáng tôn vinh, nhưng về mặt chiến lược Tổng thống Bush đã phạm sai lầm.
Trong thời gian 13 năm nước Mỹ tham chiến trong hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan từ 2001 đến 2013 để giữ gìn an ninh tại Trung cận đông- vùng nhiên liệu chiến lược của thế giới-, TQ được hưởng lợi và đã nhanh chóng vươn lên về kinh tế và kỹ thuật, họ đã đạt được những thành quả lớn không ngờ.
Với một nền kinh tế mạnh, dự trử ngoai tệ lớn và một chiến lược khôn ngoan Trung Quốc đã từng bước thực hiện được “giấc mơ Trung Quốc”.
Về công nghệ vũ khí Trung Quốc đã thực hiện thành công việc bắn hạ một vệ tinh trong không gian năm 2007 làm kinh động giới quân sự Mỹ, những năm tiếp theo Trung Quốc đã thực hiện thành công những chuyến bay vào vũ trụ.
Bằng chính nguồn lực của mình và cả ăn cắp công nghệ từ các nước Trung Quốc đã cho ra đời những máy bay tàng hình thế hệ thứ 4 và thứ 5.
Năm 2012 TQ hạ thủy Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh và tiến hành thực tập những kỹ năng vận hành Hàng không mẫu hạm, họ cũng đã thành công khi thử nghiệm việc cất và hạ cánh của phi cơ chiến đấu trên Hàng không mẫu hạm.
Về năng lực hải quân Trung Quốc chưa thể cạnh tranh với Mỹ, nhưng họ cũng đã có một lực lượng hải quân hùng hậu bậc nhất khu vực và đang trên đà phát triển nhanh chóng, họ còn phát triển những loại phi đạn chống tàu sân bay như DF 20, DF 30, là những loại vũ khí chống tiếp cận để răn đe và vô hiệu hóa sức mạnh hải quân Hoa Kỳ.
Trung Quốc còn có cả một “Quân đoàn” tin tặc để đột nhập vào hệ thống máy tính của chính phủ và các đại công ty của Mỹ và Phương Tây, ăn cắp công nghệ, bí mật kinh tế và coi đó như những cuộc diễn tập để sẵn sàng cho cuộc chiến tranh trên không gian mạng sau này.
Công ty an ninh mạng của Mỹ Mandiant đã nhận diện đơn vị 61398 đặt tại một tòa nhà 12 tầng ở Thượng hải do quân đội điều hành là thủ phạm của những vụ tấn công tin tặc vào Hoa kỳ và các nước Phương Tây.
Về kinh tế Trung Quốc vẫn giữ được đà tăng trưởng cao và liên tục bất chấp khủng hoảng kinh tế thế giới.
Sự thành công về kinh tế của Trung Quốc làm một số học giả đặt lại vấn đề về khái niệm “ Đồng thuận Bắc kinh hay đồng thuận Washington”.
Một bài báo viết “ Từ những năm đầu của thế kỷ 21, Trung Quốc đã thay thế Hoa Kỳ và châu Âu thống lãnh thị trường châu Phi. Chỉ tính riêng trong 10 năm 2003 đến 2013 hơn 2000 công ty của Trung Quốc đã ồ ạt tiến sang châu Phi nhờ những chính sách ưu đãi về vốn được sự hổ trợ bởi những ngân hàng chủ chốt của Trung Quốc và những chính sách thủ tục dễ dàng của nhà nước Trung Quốc …
Cùng với kinh tế trong vòng 8 năm kể từ khi Học viện Khổng tử đầu tiên được thành lập tại Kenia 2005, đến nay Trung Quốc đã xây dựng 29 trụ sở khác ở 22 quốc gia châu Phi”.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn của châu Mỹ la tinh với những khoảng đầu tư khổng lồ và Mỹ la tinh cũng là một thị trường quan trọng cho hàng hóa của Trung Quốc.
Ngoài châu Phi và Mỹ la tinh, Đông nam Á cũng là một đối tác thương mại lớn của Trung Quốc giúp nước này có được nguồn cung ứng nguyên nhiên vật liệu và thị trường tiêu thụ hàng giá rẽ của Trung Quốc. Kim ngạch thương mại song phương đạt gần 400 tỷ mỹ kim và đầu tư của Trung Quốc vào Asean là 100 tỷ Mỹ kim năm 2012.
Với thành quả tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong gần 4 thập niên Trung Quốc giờ đây là nền kinh tế lớn thư hai trên thế giới sau Hoa Kỳ, họ đã lần lượt qua mặt kinh tế Anh, rồi Đức và Nhật, theo OECD đến năm 2016 kinh tế Trung Quốc sẽ qua mặt Hoa Kỳ để chiếm ngôi vị số 1 thế giới.
Hiện nay một cuộc chạy đua về kinh tế và quân sự với Hoa Kỳ đang tạo nên những bất an trong cộng đồng quốc tế, không ai dám chắc là Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào khi họ đạt đến vị trí của một siêu cường.
Cụ thể tại Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam hải) họ đang lấn lướt chèn ép các quốc gia nhỏ yếu như Philippin, Việt Nam và Mã Lai, họ tung ra bản đồ hình chữ U để khẳng định chủ quyền của họ một cách áp đặt.
Tại biển Hoa đông Trung Quốc cũng leo thang tranh chấp với Nhật bản quần đảo Sinkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu ngư đảo.
Trung Quốc càng ngày trở nên hung hăng trong hồ sơ biển Đông, năm 1974 Trung Quốc chiếm Hoàng sa của Việt Nam, năm 1988 họ chiếm thêm một số đảo và bải đá thuộc Trường Sa do Việt Nam kiểm soát, những trận đánh này đã gây những thiệt hại nhân mạng không nhỏ cho Việt Nam, Trung Quốc còn tấn công ngư dân Việt Nam trên biển Đông khi họ đang đánh bắt cá tại ngư trường truyền thống của mình.
Những hành động trên báo hiệu một lối hành xử khó lường đoán của Trung Quốc.
Hiện nay tại Trung Quốc chủ nghĩa dân tộc quá khích đang trỗi dậy mạnh mẽ và được cánh diều hâu trong quân đội ủng hộ.
Những phát biểu mang nặng màu sắc dân tộc chủ nghĩa của một vài nhân vật lãnh đạo làm dấy lên sự bất an cho khu vực.
Kể từ cuộc chiến Thái bình dương do quân phiệt Nhật tiến hành tại vùng đông Á, chưa bao giờ khu vực này lại đối diện với một thách thức an ninh nghiêm trọng như bây giờ và có phần nguy hiểm hơn vì “đối tượng” có thực lực và hùng mạnh hơn quân phiệt Nhật rất nhiều.
Trước đây Nhật bản là một đế quốc bậc trung, đe dọa không lớn vì sự hạn chế bởi dân số và thực lực, còn Trung Quốc ngày nay là một quốc gia khổng lồ gấp chục lần Nhật bản về cả diện tích và dân số.
Trung Quốc là nước có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, là chủ nợ của Hoa kỳ và ngân sách quốc phòng của Trung Quốc không ngừng gia tăng, con số chính thức là 129 tỷ Mỹ kim năm 2012, nhưng theo các nhà quan sát con số thực còn lớn hơn nhiều và không minh bạch.
Báo la Croix viết “Lập trường chính thức của Trung Quốc là bảo vệ lãnh thổ và  chuẩn bị đương đầu với các xung đột quân sự từ mọi phía”.
Theo tờ báo này “mọi phía” ở đây thì hàng đầu là đương đầu với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Thái bình dương và Đông Nam Á, nơi mà Trung Quốc muốn thiết lập bá quyền.”
Như vậy “thiết lập bá quyền” là gì nếu không thay đổi thế giới?
Theo nhận định của ông Lý Quang Diệu thì từ đây đến 20 năm nữa Trung Quốc và Mỹ sẽ không có chiến tranh. Điều này có thể đúng vì Trung Quốc sẽ không trực diện tấn công Hoa Kỳ nhưng với các nước trong khu vực từ Trung Á đến Đông nam Á và Úc là những quốc gia nhỏ hoặc cường quốc bậc trung như Úc có thể bình yên hay không, điều này hoàn toàn không thể lường đoán nếu xét từ tham vọng và những hành xử của Trung Quốc trong thời gian gần đây với những đòi hỏi chủ quyền phi lý của họ.
Nếu đến lúc đó họ sử dụng vũ lực để thôn tính Úc châu thì người Mỹ sẽ làm gì khi tương quan lực lượng là ngang bằng nếu không muốn nói là có thể nghiên về phía Trung Quốc.
Với TQ Úc châu là vùng “đất Hứa”, ở đó có tất cả mọi thứ để Trung Quốc không ngần ngại mở cuộc chiến thôn tính. Và ai sẽ kiềm chế được Trung Quốc?
Như đã nói ở trên khi tương quan lực lượng thay đổi thì trật tự cũng thay đổi. Với một trật tự mà Trung Quốc là bá chủ thì điều gì sẽ xảy ra?
Không ai muốn nghĩ về một viễn cảnh như vậy, nhưng không muốn nghĩ đến không có nghĩa là viễn cảnh đó sẽ không xảy ra.
Nhân loại đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của các nước lớn để ăn cướp tài nguyên của các nước nhỏ và dân tộc nhược tiểu, cũng như những cuộc chiến để mở rộng quyền lực và không gian sinh tồn giữa các quốc gia lớn mà khốc liệt nhất là hai cuộc thế chiến trong thế kỷ 20.
Bản năng của con người là tham lam, cho dù nhân loại hôm nay đã tiến bộ và văn minh hơn thế kỷ trước với những giá trị nhân bản, nhưng không phải quốc gia nào, dân tộc nào cũng tôn trọng những giá trị này.
Và cho dù văn minh, con người cũng vẫn là con người với bản năng chinh phục.
Một nước Trung hoa đang trỗi dậy với một chế độ độc tài và tư tưởng Đại Hán không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho nhân loại trong tương lai.
Huỳnh Ngọc Tuấn
09/04/2013

34. DÂN TỘC VÀ QUỐC TẾ TỪ CÁCH TIẾP CẬN HỆ THỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU

Tác giả: Nguyễn Đình Luân.
Nhân loại đang đứng trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21. Các quốc gia, dân tộc đang chuẩn bị hành trang cho một kỷ nguyên mới mà một trong các đặc trưng cơ bản của nó là toàn cầu hoá về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường. Tư duy toàn cầu là một hình thức tư duy biện chứng của thế kỷ sắp đến. Nó là sản phẩm của lịch sử và đồng thời cũng là đòi hỏi của hiện tại và tương lai.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng là một trong những cơ sở lý luận của cách tiếp cận toàn cầu. Đồng thời bản chất nhân văn của các dân tộc cũng là một động lực mạnh mẽ thức tỉnh và thúc đẩy loài người đến với các giá trị chung như hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... Có như vậy mới có thể hiểu được tại sao phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các châu lục từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã giành được sự cổ vũ, động viên, giúp đỡ to lớn của đại đa số loài người tiến bộ.
Gần một thập kỷ đã trôi qua kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, nhưng có thể do quán tính cũng như do lợi ích nước lớn mà ở đây đó trên thế giới tư duy chiến tranh lạnh vẫn còn đang chi phối rất mạnh mẽ quan hệ quốc tế. Cuba vẫn tiếp tục bị bao vây cấm vận. Chiến tranh vẫn treo lơ lửng trên bầu trời vùng Vịnh. Nhân quyền vẫn được dùng như một công cụ gây áp lực trong quan hệ quốc tế. Vẫn còn những mưu toan "cá lớn nuốt cá bé" v.v... Đó cũng là một tất yếu khách quan khó tránh bởi vì thế giới vẫn còn đang ở thời kỳ quá độ chuyển sang một trật tự mới; cái cũ và cái mới đang cùng tồn tại, đan xen, cạnh tranh và đấu tranh với nhau. Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế cũng đang vận động và có nhiều nét mới.
Xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ hơn và tiếp tục phát triển tư tưởng của Lênin về mối quan hệ và sự chuyển hoá giữa các mặt "đối lập" và sự vận dụng tuyệt vời của Người vào hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước - con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các nước chậm phát triển. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã từng tồn tại những quan niệm cực đoan về hai thế giới với hai loại quy luật hoàn toàn khác nhau. Nhưng dần dần thực tế khắc nghiệt và bướng bỉnh đã làm cho những quan niệm đó trở nên lỗi thời. Một kiểu tư duy kinh tế mới đã hình thành và đang tiếp tục được phát triển. Một trong những đặc trưng cơ bản của nó là tư duy bằng các phạm trù năng động có liên kết với nhau và tư duy một cách có hệ thống cả ở cấp độ khu vực và toàn cầu. Sau chiến tranh lạnh, loại hình tư duy này lại càng trở nên phổ biến và cấp thiết. Hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu đã trở thành một tất yếu. Từ cách tiếp cận hệ thống kinh tế toàn cầu có thể thấy là cấu trúc hệ thống này đang chi phối mạnh mẽ quá trình vận động của quan hệ quốc tế ở các khu vực.
Thứ nhất, đó là sự chi phối của hệ thống các công ty xuyên quốc gia - cốt vật chất của quá trình toàn cầu hoá.
Một mặt, nó có thể gây ra sự tổn thương về chủ quyền và lợi ích đối với các nước đang phát triển, nhưng có thể dần dần vượt qua được thách thức này nếu các nước đang phát triển có chiến lược và sách lược đúng đắn. Mặt khác, chỉ có hợp tác được với các công ty xuyên quốc gia thì mới có thể rút ngắn được thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời như thực tế cho thấy: chỉ có các tàu lớn vượt đại dương mới có thể hạn chế và khắc phục được những rủi ro trên biển cả; cũng như vậy, các công ty xuyên quốc gia mới có nhiều khả năng hơn trong việc khắc phục các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói, chủ nghĩa tư bản xuyên quốc gia - nhà nước là một hình thức hội nhập, liên kết kinh tế phù hợp có hiệu quả nhất trong giai đoạn hiện nay, là con đường ngắn nhất để các nước đang phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Từ đây xuất hiện một hệ quả kéo theo là cần có một hình thức ngoại giao giữa nhà nước với các công ty xuyên quốc gia. Bên cạnh các chính khách, các nguyên thủ quốc gia còn phải tiếp và làm việc với đại diện các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia, và tháp tùng các vị nguyên thủ trong các chuyến viếng thăm đối ngoại thường còn có nhiều đại biểu của giới kinh doanh. Kinh tế và chính trị gắn với nhau như hình với bóng.
Thứ hai, đó là chi phối của WTO (Tổ chức thương mại thế giới).
Nhìn lại lịch sử vận động của mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng như "sự tiến hoá kinh tế" trong vài thập kỷ gần đây có thể thấy một hiện tượng là: Trong quan hệ quốc tế trên bình diện toàn cầu, các dàn xếp kinh tế thường được giải quyết trước. Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngay từ năm 1944 đã xuất hiện hệ thống Bretton Woods, IMF và WB. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, các nước phát triển bắt đầu nhận thấy rõ rệt hơn mặt trái của nền kinh tế thị trường tự do và thấy được tầm quan trọng cấp bách của việc thiết lập các tổ chức tài chính quốc tế để điều tiết, quản lý quan hệ kinh tế quốc tế. Có thể nếu không có cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai thì các thiết chế trên sẽ ra đời sớm hơn chăng ? Nhưng dù sao chúng cũng đã ra đời và thực tế đang chứng minh vai trò quan trọng của IMF và WB trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hoá.
Quá trình thị trường hoá toàn cầu hiện nay đang làm cho các thiết chế quản lý kinh tế vĩ mô ngày càng quan trọng. Tháng 1/1995 WTO đã chính thức đi vào hoạt động. Gia nhập WTO đang trở thành nhu cầu và lợi ích thiết thân của mọi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian và bước đi thích hợp.
Trong 2 năm : 1996 - 1997, quan hệ chính trị quốc tế có những chuyển động mới, đặc biệt là quan hệ giữa các nước lớn. Mỹ - Nhật nâng cấp Hiệp ước an ninh, Nga chấp nhận ký Định ước NATO - Nga, Trung - Nga tăng cường hợp tác, Mỹ - Trung có cuộc gặp thượng đỉnh, các quan hệ Trung - Nhật, Nga - Nhật đều được thúc đẩy với những kết quả khả quan... Trong số các động lực của những chuyển động mới này phải kể đến tác nhân toàn cầu hoá kinh tế cũng như vai trò của WTO. Vấn đề gia nhập WTO trong một số trường hợp như đối với Nga và Trung Quốc đã trở thành con bài chính trị trong sự mặc cả giữa các nước lớn. Đồng thời, cấu trúc mới của sự phát triển thương mại - dịch vụ trong khuôn khổ WTO hiện tại cũng như tương lai buộc các nước lớn dù muốn hay không cũng phải nhanh chóng thiết lập các khung chính trị - an ninh bảo đảm môi trường hoà bình ổn định cho hợp tác kinh tế toàn cầu.
Vai trò ngày càng tăng của WTO, IMF, WB trong cơ chế quản lý vĩ mô, quan hệ kinh tế - thương mại thế giới cho thấy những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa tính tự phát và tính tự giác trong hệ thống kinh tế quốc tế. Tính tự phát ngày càng bị hạn chế dần và tính tự giác ngày càng tăng trên quy mô toàn cầu. Đây là một trong những lý do giải thích tại sao trong vài thập kỷ gần đây thế giới có thể tránh được khủng hoảng lớp về kinh tế như cuộc khủng hoảng 1929 - 1933.
Sau chiến tranh lạnh, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở các châu lục. Tuy nhiên, khu vực hoá diễn ra không phải theo khuynh hướng biệt lập, bảo hộ mà theo chiều hướng chủ nghĩa khu vực mở : vừa tăng cường hợp tác khu vực vừa đẩy mạnh liên kết liên khu vực và liên kết toàn cầu trong khuôn khổ WTO. Có thể nói gia nhập WTO và hoạt động có hiệu quả là một trong những hình thức tốt nhất của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại hiện nay.
Thứ ba, đó là sự chi phối của xu thế đa trung tâm kinh tế thế giới đang tạo ra những cơ hội tương đối đồng đều cho các khu vực.
Khi nhấn mạnh tới tiềm năng và triển vọng của Châu A' - Thái Bình Dương thì cũng không nên quên Châu Âu - Đại Tây Dương. Mối quan hệ tương hỗ về địa - kinh tế, địa - chính trị cùng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày một gia tăng giữa các khu vực đang làm cho quan niệm trung tâm kinh tế thế giới chỉ mang tính tương đối. Đồng thời, nếu tính đến tiềm lực và vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển kinh tế thì Tây Âu và Bắc Mỹ có nhiều lợi thế và triển vọng hơn Đông A'. Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu A' hiện nay đang giúp châu A' tự nhận thức rõ hơn mình cũng như mô hình kinh tế cần xây dựng. Đặc thù hoá cái phổ biến và phổ biến hoá cái đặc thù vốn là phép biện chứng khách quan. Quá trình hai mặt này đòi hỏi phải thường xuyên kiểm tra lại mình và tính đến các giá trị của các khu vực khác. Truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm cần được kế thừa và phát triển trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng tư duy khỏi sự thống trị của các quan niệm chủ quan, lỗi thời, định kiến.
Xu thế đa trung tâm kinh tế thế giới đòi hỏi và bắt buộc các nước đang phát triển phải có "hành động mang tính toàn cầu" có quan hệ hài hoà với các trung tâm kinh tế trên thế giới. Điều này, một mặt sẽ giúp cho họ phát huy được lợi thế cạnh tranh cũng như tận dụng tối đa thế mạnh của đối tác, và mặt khác, giúp cho các nước đang phát triển có thể hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra trong nền kinh tế thị trường vốn có nhiều bất trắc khôn lường.
Đa trung tâm kinh tế thế giới tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành xu thế đa trung tâm quyền lực chính trị, bởi vì xét cho cùng thì kinh tế luôn luôn quyết định chính trị. Đồng thời, lịch sử quan hệ quốc tế khoảng 500 năm trở lại đây cho thấy đa trung tâm quyền lực chính trị là một hiện tượng trội. Từ 1495 đến 1939 trên thế giới có 6 thời kỳ tồn tại trật tự đa trung tâm quyền lực: 1495 - 1521, 1604 - 1618, 1648 - 1702, 1713 - 1792, 1815 - 1914, 1919 - 1939. Như vậy, tổng số thời gian thế giới có trật tự đa cực là 285 năm chiếm 64% so với tổng số thời gian 444 năm. Từ 1947 đến 1991 nền chính trị quốc tế được cấu trúc theo kiểu trật tự "hai cực" nhưng thực ra là hai cực "lỏng lẻo" vì từ cuối những năm 50 đầu những năm 60 đã xuất hiện xu hướng li tâm thể hiện ở mâu thuẫn Xô - Trung, mâu thuẫn Pháp - Mỹ và mâu thuẫn kinh tế giữa Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản sau này. Những tiền đề lịch sử này đang tác động mạnh mẽ tới sự hình thành xu thế đa trung tâm quyền lực chính trị trên thế giới sau chiến tranh lạnh.
Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế cũng như sự tiến hoá năng động của cấu trúc chính trị theo chiều hướng cạnh tranh với đối tác mạnh hơn cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành trật tự thế giới mới hiện nay. Mặc dù sức mạnh kinh tế còn hạn chế, nhưng Trung Quốc và Nga vẫn đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trên sân khấu chính trị thế giới.
Xu thế đa trung tâm quyền lực cả về kinh tế lẫn chính trị đòi hỏi có cách nhìn mới, hình thành nên những quan niệm mới trong vấn đề tập hợp lực lượng để có thể kết hợp tốt nhất sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bên cạnh việc chú ý quan hệ cân bằng với các đối tượng và không đi với bên này để chống lại bên kia, cũng cần phải định hướng chiến lược phát triển đúng đắn thông qua hình thức chủ nghĩa tư bản xuyên quốc gia - Nhà nước. Tiêu chuẩn cuối cùng để đánh giá hiệu quả của hoạt động đối ngoại vẫn là lợi ích chính đáng của dân tộc./.
http://www.dav.edu.vn/en/publications/international-studies-review/back-issues/1998/394-so-22-dan-toc-va-quoc-te-tu-cach-tiep-can-he-thong-kinh-te-toan-cau.html

33. TAM GIÁC TĂNG TRƯỞNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC GIA, KHU VỰC

Tác giả: Nguyễn Hải Yến.
Trong những thập kỷ qua, việc tăng cường hợp tác kinh tế khu vực nhằm đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao đã trở thành một trong những mục tiêu hàng đầu của các quốc gia đang phát triển ở khu vực Đông A'. Một trong những mô hình hợp tác kinh tế đó đang được các Chính phủ, các nhà đầu tư và các nhà kinh tế hết sức quan tâm, đó là mô hình hợp tác kinh tế khu vực, hay còn gọi là "lãnh thổ kinh tế tự nhiên", "vùng kinh tế đặc biệt" hay "tam giác tăng trưởng"1.
Loại hình hợp tác mới mẻ này được hình thành và phát triển từ cuối những năm 1980. Nó được xem như một giải pháp độc đáo của các quốc gia Đông A' trong quá trình hội nhập giữa các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cũng như hệ thống chính trị, xã hội hết sức khác biệt. Mặt khác, có thể nói tam giác tăng trưởng kinh tế hình thành như là kết quả của sự kết hợp hai nhân tố: xu thế hợp tác khu vực và luồng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Cuối những năm 80, với sự chấm dứt của chiến tranh lạnh, những căng thẳng về chính trị giữa các quốc gia cũng giảm đáng kể, điều này thực chất đã dẫn đến những mong muốn hợp tác khu vực cũng như toàn cầu. Đồng thời các quốc gia Đông A' cũng bắt đầu nhận thấy sự cần thiết phải ứng phó với những xu thế bảo hộ của các quốc gia phát triển, những khó khăn trong việc kết thúc vòng đàm phán Urugoay của GATT và sự ra đời của các khối kinh tế khu vực như Cộng đồng chung Châu Âu (EC) và khối thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Cũng đúng vào thời điểm đó, đầu tư của Nhật Bản và một số quốc gia phát triển khác vào Trung Quốc và các nước Đông Nam A' cũng tăng nhiều do đồng yên tăng giá đã làm giảm sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu Nhật, khiến họ phải dịch chuyển sang các cơ sở sản xuất mới ở nước ngoài.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan, việc hình thành ở châu A' một khối kinh tế khu vực như EC, NAFTA, chỉ có thể được đặt ra như là một mục tiêu lâu dài, nó không có tính khả thi trong giai đoạn phát triển trước mắt bởi lẽ kim ngạch buôn bán giữa các nước trong khu vực còn ở mức thấp, Mỹ và EC vẫn là thị trường chủ yếu cho các sản phẩm xuất khẩu và nguồn nhập khẩu của khu vực. Các quốc gia Đông A' không có được hệ thống luật pháp và các thể chế điều phối thương mại, đầu tư giống nhau, mức thu nhập bình quân đầu người còn quá chênh lệch, hệ thống thông tin liên lạc và giao thông còn quá nghèo nàn khiến chi phí cao và kém hiệu quả. Trong hoàn cảnh đó, mô hình tam giác tăng trưởng quả là thiết thực hơn đối với các quốc gia Đông A' như Trung Quốc và các nước ĐNA bởi nó đòi hỏi ít thời gian cũng như chi phí chuẩn bị hơn và nó có thể được áp dụng như những thử nghiệm của các quốc gia này để phục vụ cho quá trình hợp tác kinh tế ở một mức độ cao hơn- đó là hợp tác khu vực và toàn cầu.
Như đã nêu ở trên, mô hình hợp tác kinh tế tiểu khu vực này được đề cập đến với những tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, "tam giác tăng trưởng" là một khái niệm được chấp nhận rộng rãi và trở nên tương đối phổ cập. Để hiểu được nguyên tắc hoạt động và vai trò của "tam giác tăng trưởng" đối với việc phát triển kinh tế khu vực, bài viết này trước hết xin đi sâu làm rõ khái niệm này. Theo Mohamed Ariff: "Tam giác tăng trưởng" là một khối sản xuất trong đó nhân công, vốn và công nghệ có thể di chuyển một cách tự do. Mục đích của nó là giảm tối thiểu chi phí và tăng tối đa hiệu quả, tạo nên một trung tâm có sức hấp dẫn đầu tư và những sản phẩm có tính cạnh tranh toàn cầu(2). Có thể tóm lại đây là một tổ chức sản xuất xuyên quốc gia mà các nhân tố của các quá trình sản xuất như đất đai, vốn, công nghệ, nhân công cho một sản phẩm thuộc về một vài quốc gia và được bố trí trên một lãnh thổ của các quốc gia đó. Về cơ bản, tam giác tăng trưởng khai thác tính bổ sung, lợi thế so sánh của các vùng địa lý lân cận thuộc lãnh thổ của ba hay nhiều các quốc gia khác nhau để hình thành một số khu vực sản xuất có tính cạnh tranh cao trong việc thúc đẩy XK. Trong tam giác tăng trưởng, lợi ích của các quốc gia thành viên là nguồn thu ngoại tệ và công ăn việc làm, còn lợi ích của các nhà đầu tư là có được những cơ sở sản xuất hàng XK với chi phí tương đối thấp. Có thể nêu một số đặc điểm chung của các tam giác tăng trưởng trong các khu vực sau: (a) được hình thành gần như cùng thời điểm nhằm đối phó với lực lượng thị trường; (b) hầu hết được bố trí trong các khu vực kinh tế và thương mại tự do(1) do các Chính phủ hình thành nhằm tăng cường phát triển kinh tế trong những khu vực chọn lọc; (c) có định hướng XK và thu hút đầu tư; (d) khai thác lợi thế so sánh của các vùng tham gia; (e) sự phát triển của tam giác tăng trưởng năm trong chính sách phát triển khu vực và quốc gia của các chính phủ liên quan.
Do đặc điểm của tam giác tăng trưởng là dính líu đến 3 hay nhiều quốc gia (tuy chỉ là một phần), nên việc phối hợp chính sách đặc biệt là phân bổ lợi ích đóng vai trò hết sức quan trọng, phần nào quyết định thành công của tam giác tăng trưởng. Ngoài ra còn có một số yếu tố khác đóng vai trò tương tự, ví dụ như tính bổ sung cho nhau về kinh tế; sự gần gũi về địa lý của các vùng tham gia, cam kết chính trị, sự phát triển cơ sở hạ tầng. Các quốc gia đang ở những giai đoạn phát triển khác nhau có những đóng góp bổ sung cho nhau về vốn, đất đai, trình độ nhân công, mức độ công nghệ... Sự gần gũi về địa lý giúp giảm bớt về chi phí vận chuyển và liên lạc. Ngoài ra, sự tương đồng về ngôn ngữ, văn hoá (thường tồn tại ở các vùng đất ở lân cận về địa lý) cũng tăng sự hiểu biết lẫn nhau và tạo mối quan hệ làm ăn gần gũi, thân thiện hơn. Cuối cùng, cam kết chính trị của các chính phủ liên quan là yếu tố thúc đẩy các quốc gia xây dựng và đưa vào áp dụng những chính sách thuế quan, tài chính, đầu tư, hối đoái hợp lý, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển của tam giác tăng trưởng. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng giúp tạo nên một môi trường kinh tế thuận lợi cho việc hình thành và phát triển của một tam giác tăng trưởng.
Cho đến nay, tam giác tăng trưởng tuy không phải là loại hình hoạt động kinh tế xuyên quốc gia duy nhất ở Đông Nam A', song nó vẫn được đánh giá như một động lực kinh tế chủ yếu của khu vực. Thực tế của tam giác tăng trưởng đang hoạt động trong khu vực có thể là những minh chứng cho đánh giá trên. Có ít nhất 4 tam giác tăng trưởng đáng được kể đến. Đó là (1) Tam giác SIJORI gồm Singapore- Johor- Riau; (2) Tam giác IMT- GT gồm Indonesia- Malaysia- Thái Lan; (3) Khu vực tăng trưởng Đông á bao gồm Sabah Sarawak và Labuan của Malaysia - Bắc Salawesi, Đông - Tây Kalimantan của Indonesia và vùng Mindanao của Philippines; (4) Tứ giác tăng trưởng gồm tỉnhVân Nam của Trung Quốc-Lào-Thái Lan và Myanmar.
Tam giác tăng trưởng SIJORI và sự thử nghiệm đầu tiên của loại hình hợp tác tiểu khu vực này ở khu vực Đông Nam A' . Y' tưởng thành lập một tam giác tăng trưởng giữa Singapor, Johor và Riau lần đầu tiên được đề cập đến trong cuộc họp giữa Tổng thống Indonesia- Suharto và Thủ tướng Singapore- Lý Quang Diệu. Đến tháng 6/1990 kế hoạch này đã được Suharto và Mahathir tuyên bố ủng hộ, tuy nhiên phải đến tận cuộc họp thượng đỉnh các nhà lãnh đạo ASEAN lần thứ IV vào tháng 12/1992 tại Singapore, kế hoạch này mới chính thức được thông qua. Đề xuất này một phần dựa trên cơ sở sẵn có về kinh tế giữa Johor và Singapore. Như vậy có thể thấy tam giác tăng trưởng SIJORI được hình thành trên cơ sở những động năng về kinh tế cũng như chính trị.
Bảng 1: Lợi thế so sánh ở SIJORI
Loại hình kinh doanh hoạt động Singapor Johor/Riau
Điện tử Trung tâm sản xuất chính của khu vực, cơ sở mua bán quốc tế Giá công /đất đai thấp thuận tiện cho các hoạt động lắp đặt dây chuyền đòi hỏi nhiều nhân công và đất đai.
Dầu lửa Chế biến lọc/ hoá dầu, buôn bán, lưu giữ và buôn bán dầu Các hòn đảo của Riau là những vị trí tương đối tách biệt để lưu giữ dầu.
Dịch vụ hàng hải Đóng, sửa chữa và bảo dưỡng tàu biển Các hòn đảo Johor và Riau là những địa điểm tốt cho nghành công nghiệp này.
Dịch vụ viễn thông và kinh doanh Cơ sở công nghệ thông tin hàng đầu thế giới và các hoạt động dịch vụ rộng khắp, là trụ sở của nhiều công ty đa quốc gia lớn. Nhiều hoạt động sản xuất, quảng cáo, tiếp thị, mua bán và kỹ thuật của các công ty đa quốc gia đòi hỏi sự phối hợp.
Công tác hậu cần và phân phối Các phương tiện viễn thông, vận chuyển và hậu cần tuyệt hảo Các sản phẩm XK đòi hỏi sự hỗ trợ về vận chuyển và hậu cần
Kinh doanh về nông nghiệp Công nghệ chế biến thực phẩm và khả năng nghiên cứu phát triển công nghệ sinh học Nguồn đất đai dồi dào cho trồng trọt và chăn nuôi.
Lợi thế so sánh của tam giác tăng trưởng này là ở chỗ ba vùng lãnh thổ này có những nhân tố mang tính đóng góp bổ sung cho nhau hơn là cạnh tranh lẫn nhau (Xem bảng 1). Johor có đất đai và nguồn nhân công trung bình với giá thuê phải chăng; Singapore có thể đóng góp hệ thống cơ sở hạ tầng rất phát triển và lực lượng sản xuất có tay nghề cao nhưng giá thuê đắt; điểm mạnh của Riau là sẵn đất công nghiệp, nguồn nước dồi dào, bãi biển hấp dẫn du lịch và nguồn nhân công rẻ. Với những lợi thế so sánh đó, Singapore là một quốc gia đầy sức hấp dẫn đối với các công ty đa quốc gia trong những dự án cần vốn và công nghệ cao. Trong khi đó, Johor và Batam lại có những lợi thế thu hút những dự án cần sử dụng nhiều sức lao động. Tính bổ sung này đã dẫn đến nhu cầu phân phối lại quá trình sản xuất và các hoạt động dịch vụ, giúp giảm bớt giá cả sản xuất và hoạt động. Tam giác tăng trưởng SIJORI đã tận dụng và phát huy triệt để vai trò của khu vực kinh tế tập thể cũng như tư nhân. Các Chính phủ và các cơ quan chức năng của ba quốc gia luôn thể hiện ý chí chính trị và những nỗ lực củng cố SIJORI. Bên cạnh đó, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân cũng ngày càng trở lên quan trọng hơn ở khía cạnh đầu tư và tạo ra một nền kinh tế tự duy trì sự bền vững. Sự phát triển của SIJORI đã mang lại những lợi ích đa dạng cho các quốc gia thành viên. Cụ thể, nó đã giúp Singapore đạt được những mục tiêu của mình như cơ cấu lại nền kinh tế. Với việc chuyển dịch các ngành công nghiệp sử dụng nhiều sức lao động và vốn đất đai sang Johor và Riau, Singapore có cơ hội để tập trung vào những lĩnh vực có lợi thế như công nghiệp sản xuất trị giá gia tăng và công nghiệp dịch vụ như Ngân hàng, Du lịch... Tuy nhiên, SIJORI cũng giúp Singapore củng cố địa vị của mình như là một trung tâm thương mại, tài chính, giao thông, thông tin liên lạc... của khu vực. Một mục tiêu khác nữa mà Singapore đạt được nhờ sự phát triển của tam giác tăng trưởng là việc khu vực hoá và quốc tế hoá các doanh nghiệp của mình. Trong nhiều năm qua, Chính phủ Singapore luôn kêu gọi các công ty lớn, nhỏ, đẩy mạnh việc thâm nhập thị trường khu vực và quốc tế. Tam giác tăng trưởng đóng vai trò như những bài thực hành để tiến tới đạt được những định hướng trên.
Đối với Johor và Riau, có tam giác tăng trưởng đồng nghĩa với những việc thu nhận được một lượng vốn đầu tư khổng lồ hơn (đầu tư vào Johor và Riau tăng từ 20% đến 25% trong những năm đầu thập kỷ 90), góp phần đáng kể vào mức tăng trưởng công nghiệp và cải thiện GDP của toàn quốc gia. Kể từ khi được thành lập, mỗi năm tam giác tăng trưởng SIJORI đã tạo ra khoảng 30.000 công ăn việc làm cho lực lượng lao động dư thừa của Johor, bằng cách đó đã tăng cường sự ổn định xã hội và lòng tin cho dân chúng. Trên cơ sở hợp tác trong tam giác tăng trưởng của Singapore, đã có những cam kết tiến hành việc đào tạo nhân lực và phát triển hạ tầng cho Riau và Johor. ở mức độ kinh tế vĩ mô, các xí nghiệp trong tam giác tăng trưởng có cơ hội để hợp lý hoá quá trình sản xuất và phân phối thông qua việc chuyên môn hoá theo chiều dọc.
Tóm lại, qua phân tích sự tồn tại và hoạt động của một tam giác tăng trưởng đầu tiên và tiêu biểu ở khu vực Đông Nam á - SIJORI, chúng ta có thể đi đến kết luận về vai trò không thể phủ nhận của tam giác tăng trưởng. Trong quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, tam giác tăng trưởng tạo nên một sân chơi cho các quốc gia thành viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau và tận dụng những thế mạnh của nhau nhằm tạo nên những điều kiện, môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Lợi ích của mỗi thành viên trong tam giác tăng trưởng rất đa dạng tuỳ thuộc vào điều kiện và vị thế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên những lợi ích nổi bật nhất vẫn là cơ hội tăng thu nhập quốc gia, tăng công ăn việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông vận tải, đồng thời đưa các sản phẩm của mình thâm nhập thị trường ngoài nước.
Bên cạnh những đóng góp về kinh tế, tam giác tăng trưởng cũng có những vai trò nhất định trong lĩnh vực an ninh hiểu theo nghĩa rộng. Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế có tác dụng giảm bớt khả năng về vũ lực; bằng cách đó tăng cường mối quan hệ hoà bình, hợp tác giữa các quốc gia. Phó thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim từng nói: "Thay vì bàn cãi về những tranh chấp biên giới, chúng ta giờ đây đang tăng cường hợp tác kinh tế thông qua tam giác tăng trưởng và các mối liên kết xuyên quốc gia khác"(1).Mặc khác, người ta cũng đánh giá rằng tam giác tăng trưởng đã góp phần vào sự ổn định cho nội bộ các chính phủ, quốc gia thông qua việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, tạo nên sự thịnh vượng về kinh tế- nguồn gốc của lòng tin trong nhân dân, do vậy những mầm mống chống đối, phá hoại cũng suy giảm đáng kể, tức là nền an ninh quốc gia cũng như khu vực trở nên ổn định hơn. Ngoài ra trong kỷ nguyên mà địa- kinh tế có xu hướng lấn át địa- chính trị, sự tồn tại và phát triển của tam giác tăng trưởng khiến các cường quốc nhìn nhận khu vực này như một sân chơi với những cơ hội và tiềm năng to lớn về kinh tế hơn là những chính sách tranh giành quyền lực của mình.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, quá trình xây dựng và quản lý tam giác tăng trưởngcũng còn nhiều vấn đề tồn tại đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và khắc phục nhằm xây dựng những tam giác kinh tế có hiệu quả hơn. Đó là những vấn đề như phân phối lợi ích, xử lý các mối quan hệ đối với công nhân làm thuê, quản lý dòng nhân công di tản hòng tìm kiếm lợi thế về công xá...
Là một quốc gia kém phát triển, có thu nhập quốc dân và thu nhập đầu người tương đối thấp so với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực to lớn nhằm tạo cho mình những điều kiện thuận lợi trong quá trình hội nhập khu vực (AFTA) và toàn cầu (WTO). Để hướng tới mục tiêu trên, việc đẩy mạnh sản xuất hướng vào XK là một trong những ưu tiên trong chiến lược phát triển mà Chính phủ đã đề ra cho giai đoạn phát triển trước mắt. Việt Nam cũng đã thành lập những khu công nghiệp, chế xuất như Tân Thuận, Bình Tiên, với những chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi đặc biệt cho các nhà đầu tư. Với những tiền đề như vậy, việc hình thành tam giác tăng trưởng với các vùng, miền của các quốc gia láng giềng cũng có thể được xem xét, nghiên cứu như một giải pháp để tăng cường hợp tác, thu hút nguồn vốn đầu tư và tận dụng triệt để hơn nữa những lợi thế so sánh của mình nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển, có được một vị thế có lợi nhất khi hoà nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới./.
http://www.dav.edu.vn/en/publications/international-studies-review/back-issues/1998/405-so-23-tam-giac-tang-truong-va-su-phat-trien-nen-kinh-te-quoc-gia-khu-vuc.html

32. VAI TRÒ CỦA CÁC NƯỚC VỪA VÀ NHỎ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ Ở CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG

Tác giả: Lê Linh Lan.
Gần như luôn có một sự nhất trí giữa các nhà hoạch định chính sách, các chiến lược gia cũng như các nhà phân tích và học giả quan hệ quốc tế về vai trò quyết định của các nước lớn trong nền chính trị quốc tế ở mức độ khu vực hay toàn cầu. Định đề này cho đến nay khó có thể bị phản bác. Tuy nhiên, sự lớn mạnh của ASEAN, một tập hợp các nước nhỏ và vừa ở Đông Nam A' cùng với vai trò ngày càng tăng của tổ chức này trong các vấn đề khu vực thực sự đã cho thấy các nước vừa và nhỏ không đơn thuần chỉ là những diễn viên thụ động trong nền chính trị quốc tế. Bên cạnh ASEAN, ta cũng thấy vai trò tích cực của Ôxtralia và Canada trong các diễn đàn đa phương về kinh tế cũng như an ninh ở khu vực. A'nh hưởng và vai trò chính trị của những nước này ở mức độ nào đó đã vượt xa sức mạnh kinh tế cũng như quân sự mà họ có thể đem lại. Vậy nhân tố gì đã đưa các nước tầm trung vào phương trình chiến lược ở khu vực châu A'- Thái Bình Dương (CA-TBD)? Bằng cách nào mà các nước tầm trung có thể có một vai trò và ảnh hưởng lớn hơn nhiều cái mà sức mạnh của từng nước có thể mang lại?
Vai trò của các nước vừa và nhỏ thời kỳ chiến tranh lạnh:
Suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, vai trò của các nước vừa và nhỏ trong các vấn đề quốc tế hầu như không rõ nét bởi những hạn chế mà trật tự hai cực và sự đối đầu quyết liệt giữa Liên Xô và Mỹ đã không để cho các nước vừa và nhỏ có thể có vai trò đáng kể trong nền chính trị quốc tế. Thực tế này có thể được giải thích bằng ba yếu tố chủ yếu.
Y' thức hệ là yếu tố chủ đạo chi phối quan hệ giữa các nước thời kỳ chiến tranh lạnh. Hai siêu cường đại diện cho hai hệ tư tưởng đối đầu đã quyết định trật tự hai cực trong hơn bốn thập kỷ. Thế giới được phân chia thành hai thế giới "cộng sản" và "phi cộng sản". Y' thức hệ cũng là ngọn cờ tập hợp lực lượng của hai siêu cường để phục vụ cho chiến lược toàn cầu của mình. Vì vậy, phần lớn các nước bị lôi kéo vào cuộc ganh đua khốc liệt giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô. U'c trở thành đồng minh của Mỹ trong khuôn khổ hiệp định ANZUS. Canada cũng đứng về phía Mỹ trong mặt trận chống Liên Xô và các nước đồng minh của Liên Xô. Khi cuộc xung đột Campuchia nổ ra năm 1978, Canada ngay lập tức đã ngừng viện trợ cho Việt Nam và Campuchia để phản ứng sự dính líu của Liên Xô vào khu vực này.
Hơn nữa, trong bối cảnh chiến tranh lạnh và sự thổi phồng của phương Tây về một "mối đe doạ cộng sản", các nước vừa và nhỏ khác đều lo sợ trước nguy cơ này và ở mức độ nào đó đều tìm kiếm sự đảm bảo an ninh của các nước lớn. Sự phụ thuộc, thậm chí dựa hẳn vào các nước lớn để đảm bảo an ninh cho mình tất yếu sẽ dẫn đến một mối quan hệ không bình đẳng giữa các nước vừa và nhỏ với các nước lớn. Với sức mạnh kinh tế và quân sự áp đảo, hai siêu cường đã chi phối gần như hoàn toàn chiến lược của các nước thuộc phe hay vùng ảnh hưởng của mình. Vì toàn bộ diễn biến của nền chính trị thế giới xoay quanh sự đối đầu giữa hai siêu cường, các nước vừa hoặc là liên kết với Mỹ để chống lại Liên Xô hoặc đi với Liên Xô chống lại Mỹ. Chính vì vậy, các nước tầm trung như U'c, Canada hay các nước ASEAN lúc đó không có một vai trò độc lập mà chỉ phụ thuộc vào Mỹ và các đồng minh lớn của Mỹ.
Cuối cùng, trong bối cảnh cuộc ganh đua gay gắt giữa hai siêu cường, cuộc chiến tuy vẫn "lạnh" nhưng đã có lúc hai bên đã đi đến bờ vực của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mối đe doạ hay nguy cơ chiến tranh hạt nhân cũng nằm trong những tính toán của các nước tầm trung trong quan hệ với các nước lớn. Nói cách khác, ô hạt nhân của các nước lớn cũng là một trong những nhân tố quyết định mối quan hệ phụ thuộc, không bình đẳng giữa các nước đồng minh nhỏ hơn với Mỹ.
Nhân tố thúc đẩy vai trò các nước tầm trung thời kỳ sau chiến tranh lạnh:
Với những hạn chế như vậy, có thể thấy tại sao các nước tầm trung hầu như không có được một vai trò độc lập khi cuộc ganh đua giữa hai siêu cường là nhân tố chủ đạo của nền chính trị quốc tế. Chiến tranh lạnh kết thúc đã tác động căn bản đến vai trò và vị thế của các nước tầm trung. Không những những hạn chế do Chiến tranh lạnh đem lại đã không còn, mà bên cạnh đó, có thể thấy một số nhân tố khác có tác dụng thúc đẩy vai trò của các nước vừa và nhỏ trong các vấn đề chính trị và an ninh ở khu vực CA-TBD.
Thứ nhất, mặc dù chiến tranh lạnh đã chấm dứt được hơn 7 năm và kéo theo nó là sự sụp đổ của cả một trật tự thế giới lưỡng cực tồn tại hơn 4 thập kỷ, quá trình hình thành một trật tự thế giới mới chưa kết thúc. Thế giới vẫn đang trong quá trình chuyển tiếp từ trật tự cũ sang một trật tự thế giới mới. Và không ít nhà phân tích cho rằng giai đoạn này sẽ còn tương đối dài. Một môi trường đang thay đổi như hiện nay thuận lợi cho các nước vừa phát huy vai trò vì các nước vừa và nhỏ với những nỗ lực về ngoại giao của mình sẽ có khả năng tác động, ở mức độ nào đó, đến quá trình hình thành một trật tự thế giới mới.
Thứ hai, với sự sụp đổ của Liên Xô cũ, Mỹ trở thành siêu cường toàn diện duy nhất. Tuy nhiên, sự nổi lên của Trung Quốc-một siêu cường trong thế kỷ 21-, sức mạnh kinh tế đang được dần chuyển thành sức mạnh chính trị của Nhật và vai trò tuy đã suy yếu của Nga so với Liên Xô cũ nhưng vẫn đáng kể đặc biệt ở châu Âu đã không cho phép Mỹ giữ một vị trí độc tôn trong nền chính trị quốc tế. Hơn nữa, với quá trình toàn cầu hoá và hệ quả trực tiếp của nó là sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế cũng như những vấn đề mang tính chất toàn cầu mà toàn cầu hoá mang lại làm cho bất cứ một nước nào dù mạnh đến đâu cũng trở nên bất lực trước những thách thức lớn lao đòi hỏi sự hợp tác của tất cả các nước, từ lớn đến vừa và nhỏ. Vì vậy, vai trò của các nước vừa và nhỏ không thể không được tính đến trong một trật tự thế giới đa cực đang hình thành. Một mặt, trong một trật tự bao gồm nhiều diễn viên chính, các nước vừa và nhỏ sẽ có khả năng lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn để có vai trò trong các vấn đề khu vực. Mặt khác, khi mà ý thức hệ không còn là nhân tố quyết định chính sách của các nước và lợi ích dân tộc trở thành nhân tố hàng đầu trong việc hoạch định chính sách của các nước lớn cũng như nhỏ, các nước lớn không còn có lợi ích trong việc đỡ đầu các nước vừa và nhỏ để thu nạp những nước này vào trong vùng ảnh hưởng hay quỹ đạo của mình. Vì vậy, mối quan hệ "bảo trợ" phổ biến thời kỳ chiến tranh lạnh đã nhường chỗ cho những mối quan hệ cân bằng hơn giữa các nước lớn với các nước vừa và nhỏ.
Thứ ba, chính sách của các nước lớn hay nhỏ trong thời kỳ chiến tranh lạnh được quyết định chủ yếu bởi những tính toán địa chiến lược. Bắt đầu từ những năm 80, khi các trung tâm kinh tế như Nhật Bản và EU nổi lên thách thức địa vị siêu cường kinh tế toàn cầu của Mỹ và khi quan hệ các nước lớn bắt đầu đi vào hoà hoãn, một trong những xu hướng chủ đạo mới trong quan hệ quốc tế và gần đây lại được khẳng định trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu A' lànhững tính toán về kinh tế đã trở nên nổi trội trong quan hệ quốc tế. Điều này có liên hệ mật thiết với vai trò của các nước vừa, đặc biệt là U'c, Canada và các nước ASEAN, trong việc nâng cao vai trò của mình trong việc đẩy mạnh hợp tác kinh tế cũng như an ninh ở khu vực CA-TBD. Tuy không phải là những nền kinh tế lớn, U'c và Canada cũng là những nền kinh tế phát triển thuộc tổ chức OECD và ở chừng mực nào đó đều có nguồn lực để tăng cường vai trò của mình thông qua những biện pháp kinh tế như thương mại, viện trợ phát triển và đầu tư vào các nước đang phát triển ở khu vực CA-TBD. Thành tích kinh tế của ASEAN đạt được sau hơn hai thập kỷ phát triển với tốc độ nhanh nhất thế giới cũng góp phần nâng cao vai trò và vị thế của ASEAN. Hơn nữa, khi những tính toán kinh tế ngày càng trở nên quan trọng, các nước vừa và nhỏ sẽ có xu hướng được nhìn nhận như những đối tác trong quan hệ thương mại, đầu tư hay thị trường, thay vì là những nước "đàn em" cần được che chở về an ninh như trong thời kỳ đỉnh cao của cuộc chiến tranh lạnh.
Thứ tư, khi quan hệ giữa các nước lớn cụ thể là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Nga vẫn còn chứa đựng những yếu tố bất ổn định và không chắc chắn như hiện nay, các nước vừa và nhỏ có điều kiện thuận lợi để đóng một vai trò tích cực trong các vấn đề khu vực bằng cách đóng vai trò trung gian hay cầu nối giữa các nước lớn. Vai trò như vậy bước đầu đã được ASEAN thực hiện rất thành công thông qua những diễn đàn đa phương do ASEAN đóng vai trò trung tâm. Mặt khác, khi quan hệ giữa các nước lớn chưa được suôn sẻ, các nước lớn vẫn có nhu cầu lôi kéo các nước vừa và nhỏ để tập hợp lực lượng. Điều này thể hiện rất rõ trong những nỗ lực của Nhật Bản,Trung Quốc và Mỹ tìm kiếm sự hợp tác của ASEAN. Cải thiện quan hệ giữa các nước lớn diễn ra sau một loạt các cuộc thăm viếng cấp cao năm 1997 đã làm cho người ta hy vọng kịch bản "hoà hợp quyền lực"- tức là một kịch bản trong đó các nước lớn có quan hệ tương đối hài hoà với nhau - sẽ trở thành hiện thực. Nếu điều đó xảy ra, một mặt nó sẽ có tác dụng tích cực đối với hoà bình và ổn định ở khu vực CA-TBD và trên thế giới. Tuy nhiên, có những mối lo ngại rằng điều đó sẽ dẫn đến sự suy giảm vai trò của các nước vừa và nhỏ. Đây là một vấn đề còn cần tranh cãi. Tuy nhiên, trong tương lai từ 10 đến 15 năm, kịch bản hoà hợp quyền lực giữa các nước lớn khó có thể xảy ra vì những bất đồng và những vấn đề tồn tại giữa các nước lớn vẫn khó được giải quyết. Vấn đề Đài Loan, vấn đề dân chủ nhân quyền vẫn có nguy cơ làm căng thẳng quan hệ Trung- Mỹ, tranh chấp lãnh thổ và mối nghi kỵ sâu sắc vẫn là những điểm tối trong quan hệ Trung- Nhật. Nhìn chung, về cơ bản quan hệ giữa các nước lớn hiện nay và trong tương lai không xa sẽ thiên hơn về cân bằng quyền lực mặc dù hoà hợp quyền lực có thể có nhưng chỉ trên một số vấn đề riêng biệt.
Cuối cùng, một trong những nhân tố có tác dụng thúc đẩy vai trò của các nước vừa và nhỏ là xu thế khu vực hoá, đa phương hoá cũng như xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Xu thế này có một ý nghĩa quan trọng đối với vai trò của các nước vừa và nhỏ bởi khi ngày càng nhiều vấn đề kinh tế, an ninh và chính trị được đưa ra bàn bạc ở các diễn đàn đa phương, các nước vừa và nhỏ đều có quyền tham gia và có tiếng nói, dù ít hay nhiều, trong các vấn đề liên quan đến vận mệnh của mình. Đã qua rồi thời kỳ các nước lớn có thể đơn phương áp đặt ý chí và luật lệ của mình lên các quốc gia khác. Chính ở đây, trong các diễn đàn đa phương, các quốc gia vừa và nhỏ, đặc biệt là khi cùng nói chung một tiếng nói, có thể có ảnh hưởng không thể bỏ qua đối với các vấn đề khu vực cũng như quốc tế.
Vai trò các nước vừa và nhỏ thời kỳ hậu chiến tranh lạnh:
Vai trò tích cực của Ôxtralia, Canada và đặc biệt là ASEAN đã trở thành một nét đặc trưng trong bức tranh toàn cảnh ở khu vực CA-TBD từ đầu những năm 90 trở lại đây. Ôxtralia và Canada đã tỏ ra ngày càng độc lập hơn trong chính sách đối ngoại của mình. Điều này phần nào thể hiện trong việc nối lại viện trợ (Canada- 1990 và Ôxtralia -1992) cho Việt Nam ngay cả khi Mỹ vẫn tiếp tục thi hành cấm vận đối với Việt Nam. Vai trò tích cực của Ôxtralia trong việc đưa ra những sáng kiến để tìm một giải pháp cho cuộc xung đột Campuchia cũng là một trong những minh hoạ điển hình cho cái được gọi là" vai trò lãnh đạo về mặt kỹ thuật và sáng kiến của các nước tầm trung" . Chính phủ U'c đã đưa ra "Sách đỏ" (Red Book) về Campuchia với tên gọi " Campuchia: Một đề xuất hoà bình của Ôxtralia", và đề xuất này sau đó đã được tính đến trong văn kiện khung của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về xung đột Campuchia. Nếu như sự dính líu và xung đột của các nước lớn là nhân tố quyết định trật tự khu vực Đông Nam A' thời kỳ chiến tranh lạnh và ASEAN đã không có cơ hội để có một tiếng nói độc lập, thì giờ đây ít ai có thể tranh cãi một thực tế là ASEAN đã trở thành một thực thể chính trị có khả năng tham gia tạo dựng một trật tự khu vực mới. ASEAN đã có vai trò đầu tàu trong các Diễn đàn PMC, ARF và ASEM. Các nước lớn, cả Mỹ, Nhật, Trung Quốc và Nga đều tìm kiếm sự hợp tác của ASEAN. Tầm quan trọng về địa chính trị cũng như địa kinh tế của một ASEAN mở rộng trong các vấn đề khu vực càng được nâng cao. Thế mà cả trong quan hệ với các nước lớn cũng như vị thế của ASEAN cũng được tăng cường. Vì vậy, cùng với những nước tầm trung như U'c và Canada, ASEAN có thể tiếp tục phát huy vai trò và tiếng nói của mình trong các Diễn đàn an ninh và kinh tế ở khu vực để tham gia tích cực vào các vấn đề khu vực nhằm phục vụ lợi ích không chỉ các nước lớn mà còn phục vụ lợi ích của các nước vừa và nhỏ.
Sức mạnh của các nước vừa và nhỏ còn nằm trong lĩnh vực ý tưởng, sáng kiến, đề xuất để giải quyết những vấn đề khu vực. Thông thường, sáng kiến do các nước lớn đưa ra khó được chấp nhận hơn bởi lo sợ và nghi kỵ từ các nước khác về việc tranh giành ảnh hưởng hay mưu đồ khuếch trương vai trò của mình nhằm giành lợi thế với các nước lớn khác nhằm phục vụ cho những ý đồ, mục đích riêng của mình. Sáng kiến về đối thoại an ninh của Nhật năm 1992 và gần đây nhất là sáng kiến của Nhật thành lập Quỹ châu A' đã không được hoan nghênh cũng phần nào xuất phát từ những lý do trên. Chính trong lĩnh vực này, các nước vừa và nhỏ có lợi thế đặc biệt mạnh hơn bởi ít bị nghi kỵ hơn về ý đồ đằng sau những sáng kiến. Hơn nữa, nếu sáng kiến được đưa ra bởi chính những nước vừa và nhỏ, thì những ý tưởng này thường có tính đến cả lợi ích của các nước vừa và nhỏ khác nên cũng thường dễ được chấp nhận hơn. Thực tế có thể minh hoạ sống động cho lập luận này. APEC là sáng kiến của Ôxtralia, và ARF là sáng kiến của ASEAN. Tổng thống Phillipines Phidel Ramos đã từng khẳng định:" Ôxtralia và các nước ASEAN đã chứng tỏ rằng những nước tầm trung (Middle Powers) không cần phải là những khán giả thụ động trước những tác động qua lại giữa các nước lớn của khu vực. Cả Ôxtralia lẫn ASEAN đã cho thấy những nước ở tầm trung như chúng ta có thể là những diễn viên đáng kể - nếu như không phải trong sức mạnh về kinh tế và quân sự thì sẽ là trong sức mạnh của những ý tưởng và trong lĩnh vực thuyết phục về đạo lý".
Một lĩnh vực khác trong đó các nước vừa và nhỏ có thể phát huy vai trò của mình là lĩnh vực xây dựng lòng tin. Các biện pháp xây dựng lòng tin tuy là bước đầu nhưng lại rất quan trọng, đặc biệt là ở khu vực CA-TBD. Tính chất không bắt buộc và không chính thức của các biện pháp xây dựng lòng tin nhìn chung là thích hợp đối với khu vực này khi mà chủ nghĩa khu vực còn ở trong trạng thái phôi thai. Tuy kết quả của Hội thảo do Indonesia tổ chức với sự tài trợ của Canada về Biển Đông còn hạn chế nhưng nó vẫn có một ý nghĩa rất tích cực với tư cách là một hình thức xây dựng lòng tin, giảm căng thẳng để tạo nền móng cho đối thoại tiến tới giải pháp sau này. Một trong những đặc điểm nổi bật của khu vực CA-TBD là khu vực này thực tế chưa có được một cơ chế an ninh toàn khu vực có khả năng giải quyết được các vấn đề an ninh cụ thể. Về khía cạnh này, vai trò của các nước tầm trung sẽ rất quan trọng trong việc đưa ra những ý tưởng mới nhằm tạo lập một kiến trúc an ninh thích hợp với những đặc điểm riêng biệt của khu vực CA-TBD.
Kết luận:
Những hạn chế do trật tự thế giới hai cực tạo ra đối với vai trò độc lập của các nước vừa đã không còn cùng với sự kết thúc của chiến tranh lạnh. Hơn nữa, bối cảnh quan hệ quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh cũng tạo ra một số những nhân tố thuận lợi cho các nước vừa phát huy vai trò của mình trong các vấn đề kinh tế cũng như an ninh ở khu vực. Có thể thấy một bước chuyển biến về lượng cũng như về chất trong vai trò của các nước tầm trung như U'c, Canada và ASEAN. Không phải là sức mạnh kinh tế hay quân sự mà sẽ là những sáng kiến, ý tưởng sáng tạo cùng với vai trò ngoại giao tích cực sẽ quyết định vai trò cũng như đóng góp của các nước vừa và nhỏ vào nền an ninh chung của khu vực. Điều này không có nghĩa là vai trò của các nước lớn suy giảm. Quan điểm của bài viết này là tuy các nước lớn vẫn nắm vai trò chủ đạo trong các vấn đề quốc tế, nhưng trong một môi trường đã thay đổi căn bản so với thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước vừa và nhỏ vẫn có điều kiện cũng như khả năng để có một tiếng nói đáng kể trong các vấn đề quốc tế và khu vực.
Cuối cùng, chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo ra một môi trường an ninh hoà bình hơn nhưng không nhất thiết là ổn định hơn. Các cuộc xung đột lãnh thổ, tôn giáo hay sắc tộc có chiều hướng gia tăng. Mặc dù những cuộc xung đột như vậy không có sức huỷ diệt toàn cầu như một cuộc chiến tranh hạt nhân giữa hai siêu cường, nhưng nó vẫn có nguy cơ phá vỡ hoà bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực. Điều này càng đúng hơn nếu như tính đến sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia. Vì vậy, hành động kiềm chế, và có trách nhiệm như một "công dân quốc tế gương mẫu" bản thân nó cũng sẽ là đóng góp của các nước vừa và nhỏ đối với nền an ninh và thịnh vượng chung của mọi quốc gia trên thế giới cũng như ở khu vực châu A'- Thái Bình Dương./.
http://www.dav.edu.vn/en/publications/international-studies-review/back-issues/1998/406-so-23-vai-tro-cua-cac-nuoc-vua-va-nho-trong-quan-he-quoc-te-o-khu-vuc-chau-a-thai-binh-duong.html