Friday, August 1, 2014

14. BA MỐI LO TRONG QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC

Xem xét trên ba lĩnh vực thương mại, đầu tư và tổng thầu EPC, kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng như thế nào nếu xảy ra xung đột với Trung Quốc?
Ba mối lo  trong quan hệ kinh tế  Việt Nam - Trung Quốc
Nhà máy Alumin Nhân Cơ, một trong số các dự án của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm trách. Ảnh: TL
Sản xuất có bị tê liệt?
Việt Nam chưa cải thiện được nhiều về xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng lại gia tăng mạnh về nhập khẩu từ quốc gia này. Nói cách khác, Việt Nam đang phụ thuộc ngày càng nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Số liệu thống kê cho thấy từ năm 2000 – 2013, tỉ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ dao động trong khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng tỉ trọng nhập khẩu đã tăng từ 10% lên mức 28% trong cùng thời gian. Năm 2013, tỉ trọng nhập khẩu và xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lần lượt là 10,2% và 27,6%.
Con số 28% này tác động thực sự thế nào đến kinh tế Việt Nam?
Tỉ trọng xuất khẩu, nhập khẩu với Trung Quốc trong tổng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam.
Theo số liệu tổng cục Hải quan & IMF (các năm)
Xét về cơ cấu nhập khẩu, theo phân loại ngành kinh tế lớn (BEC), có thể thấy đa phần hàng hoá nhập từ Trung Quốc là hàng phụ trợ công nghiệp và tư liệu sản xuất – tức là hàng hoá trung gian phục vụ sản xuất – và nhập khẩu hai nhóm này từ Trung Quốc tăng cao hơn nhập khẩu từ thế giới. Với cơ cấu hàng tiêu dùng chiếm tỉ trọng khoảng 20%, hàng tư liệu sản xuất chiếm khoảng 35%, hàng công nghiệp phụ trợ và máy móc phụ tùng vận tải 35%, có thể thấy khoảng 70% hàng hoá Trung Quốc được nhập vào Việt Nam để phục vụ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam.
Phải giữ công ăn việc làm cho người Việt Nam
Chủ đầu tư từ phía Việt Nam như EVN, chỉ thuần tuý thuê người ta làm toàn bộ rồi mình nhận chuyển giao chứ không thể tổ chức thực hiện được khâu nào như thiết kế hay cơ khí. Điều này dẫn đến việc nhà thầu Trung Quốc mang vào Việt Nam đủ thứ từ A đến Z, kể cả lao động, gây nên những mối nguy khác về an ninh, xã hội. Trong khi, như chuyện lao động, dù họ thắng thầu, đáng lẽ ta có thể thương lượng, ràng buộc trong hợp đồng để không làm mất cơ hội việc làm của người Việt mình. Hiện ta đã có những bước điều chỉnh. Theo luật Đấu thầu mới, yêu cầu về chất lượng kỹ thuật đã được đặt lên hàng đầu, cách tính giá cũng không còn gói trong giá xây dựng ban đầu mà tính cả cho cả vòng đời của dự án, bao gồm cả khâu vận hành, bảo trì, để dễ so sánh đúng thực chất chuyện rẻ, mắc. Dù muốn hay không thì chúng ta cũng phải phát triển năng lực của mình, nếu không sẽ đơn giản là chuyển từ lệ thuộc Trung Quốc sang lệ thuộc nhà thầu đa quốc gia. Nên chia dự án thành những gói thầu nhỏ để nhà thầu Việt Nam có thể tham gia. Đàm phán TPP nên theo hướng dự án phải lớn cỡ bao nhiêu thì mới phải tổ chức đấu thầu quốc tế, còn lại thì giữ công ăn việc làm cho lao động Việt Nam.
Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Nếu để ý có thể thấy ngoài Trung Quốc, Việt Nam còn nhập siêu với Hàn Quốc và ASEAN với giá trị nhập siêu tương đối lớn – năm 2013, nhập siêu từ hai thị trường này là khoảng 14 tỉ USD và 3 tỉ USD. Điều đó cho thấy, ngoài Trung Quốc, các doanh nghiệp FDI Việt Nam cũng nhập khẩu nhiều hàng phụ trợ, nguyên vật liệu đầu vào từ các nơi khác. Do đó, có thể giả thiết rằng phần nhập khẩu từ Trung Quốc của doanh nghiệp FDI đã được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu và đem lại thặng dư thương mại cho Việt Nam. Phần còn lại trong hàng nhập khẩu về máy móc thiết bị, công nghệ được doanh nghiệp Việt Nam hấp thụ và chuyển thành công nghệ của mình. Do đó, việc lo ngại rằng nếu xảy ra xung đột thương mại, sản xuất Việt Nam có thể bị tê liệt là nhận định cần thêm bằng chứng, bởi trong chuỗi sản xuất toàn cầu hiện nay các công ty xuyên quốc gia luôn phải tìm cách chủ động về nguồn tư liệu sản xuất đầu vào.
Điều thực sự cần chú ý đối với sản xuất của Việt Nam là nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí cả các doanh nghiệp lớn, đang sử dụng công nghệ của Trung Quốc để sản xuất. Công nghệ Trung Quốc rẻ, sẵn có, dễ sử dụng. Nhưng về lâu dài, việc này không chỉ khiến Việt Nam luôn ở nấc thang thấp hơn Trung Quốc về mặt công nghệ sản xuất mà còn làm suy giảm động lực nghiên cứu phát triển (R&D) của doanh nghiệp Việt Nam.
Khi Trung Quốc đón đầu TPP
Trong số các điểm đến đầu tư, châu Á chiếm hơn 60% tổng vốn FDI của Trung Quốc, nhưng ASEAN chỉ chiếm 7-9% trong tổng số này, còn lại 40-45% vốn vào châu Á của Trung Quốc là đầu tư sang Hồng Kông.
Đáng chú ý nguồn vốn FDI Trung Quốc chủ yếu mang đặc điểm của giai đoạn đầu – đi ra bên ngoài mua tài nguyên và mua kỹ thuật: đầu tư vốn nhưng không chuyển nhà xưởng/nhà máy ra nước ngoài do lao động trong nước – đặc biệt lao động tại khu vực miền Trung, miền Tây còn nhiều; đa phần là doanh nghiệp thương mại có mục tiêu thu mua kỹ thuật và tài nguyên; hầu như chỉ sử dụng lao động Trung Quốc.
Số liệu tính toán của chúng tôi cho thấy 60% số dự án và 70% tổng vốn FDI của Trung Quốc nhằm tìm kiếm các tài sản chiến lược và chiếm lĩnh tài nguyên.

Mục đích đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp lớn Trung Quốc 2000 - 2011.
Theo số liệu của MOFCOM và SAFE (các năm)
Theo số liệu của bộ Công thương, tính từ 1.1.2013 đến hết 15.12.2013, số dự án đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam được cấp mới là 89 dự án, vốn đăng ký cấp mới là 2,276 tỉ USD. Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến hết ngày 15.12.2012, Trung Quốc đã có 891 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt trên 4,68 tỉ USD, đứng thứ 14 trên 96 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó, các dự án tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên trong nước (chiếm trên 70% tổng dự án và xấp xỉ 60% tổng vốn đầu tư).
Tuy nhiên, cùng với việc Việt Nam đẩy mạnh đàm phán gia nhập TPP, đã xuất hiện hiện tượng doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư mạnh vào việc xây dựng nhà máy để sản xuất nguyên vật liệu tại Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội từ TPP. Các nhà máy 100% vốn Trung Quốc tại Nam Định, Hà Tĩnh v.v.. đều xuất hiện trong bối cảnh này.
Điều đáng chú ý là với những ngành như dệt may, da giày, việc đầu tư nhà xưởng của doanh nghiệp FDI sẽ đặt Việt Nam trước thách thức quản lý việc xử lý nước thải công nghiệp bởi những ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp này (như nhuộm, thuộc da v.v.) đều là những ngành có mức độ ô nhiễm nặng nề. Nếu doanh nghiệp Việt Nam không tăng cường được khả năng đáp ứng các yêu cầu về xuất xứ hàng hóa, đồng thời không quản lí được hoạt động của doanh nghiệp FDI, có thể lợi thế từ việc gia nhập TPP sẽ trở thành một cái bẫy tự do hóa thương mại mới đối với Việt Nam.
Mối nguy tổng thầu EPC
Trung Quốc hiện là nhà thầu lớn nhất của Việt Nam. Các doanh nghiệp Trung Quốc đã trúng thầu EPC (tư vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành; hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khoá trao tay) phần lớn các công trình năng lượng, khai khoáng, luyện kim ở Việt Nam.
Theo thống kê được công bố vào đầu tháng 4. 2014 của viện Nghiên cứu cơ khí thuộc bộ Công thương, Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15 công trình được phía Trung Quốc làm tổng thầu EPC. Trong ngành ximăng, 24 dự án lớn do Trung Quốc làm tổng thầu. Cả nước có hai dự án công nghiệp nhôm và bauxite và ba nhà máy tuyển than thì tất cả đều do nhà thầu Trung Quốc đảm trách.
Tuy chưa có số liệu đầy đủ nhưng một báo cáo trước đây do uỷ ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội công bố cho thấy, tính đến năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu EPC tại Việt Nam rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc, trong đó có tới 30 dự án trọng điểm quốc gia. Bên cạnh lo lắng về chất lượng, tiến độ mà thời gian gần đây đã bộc lộ ở một số công trình, việc các nhà thầu Trung Quốc thường sử dụng nhiều lao động Trung Quốc còn có thể gây nên các vấn đề về xã hội. Theo báo cáo mới nhất của ban quản lý khu kinh tế Vũng Áng (nơi được tỉnh Hà Tĩnh uỷ quyền cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài), khu kinh tế này hiện có 3.730 người nước ngoài, chủ yếu là người Trung Quốc, nhưng chỉ có 1.560 người được cấp giấy phép lao động.
Mối nguy lớn nhất từ thực tế EPC hiện nay là mối nguy đối với an ninh năng lượng. Nếu chú ý có thể nhận thấy nhà thầu Trung Quốc nắm các dự án quan trọng trong Tổng sơ đồ điện 6 và Tổng sơ đồ điện 7 của Việt Nam, và hầu hết trong số này đến nay đều chậm tiến độ hoặc bị đội vốn lên rất cao. Nếu có trục trặc gì lớn, như việc nhà thầu Trung Quốc ngừng thi công, thì Việt Nam sẽ thiếu điện. Doanh nghiệp có thể mở rộng nguồn cung đầu vào từ nước khác với giá cao hơn nhưng không thể hoạt động khi thiếu điện. Đời sống hàng ngày của người dân cũng đang bị lệ thuộc vào điện.
PHẠM SỸ THÀNH, giám đốc chương trình Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR)

http://nguoidothi.vn/ba-moi-lo-trong-quan-he-kinh-te-viet-nam-trung-quoc.ndt

Giao thương với TQ - làm sao để khỏi thua thiệt?

18:16:00 03/06/2014
[ thesaigontimes.vn - 03/06/2014 - TS. Phạm Sỹ Thành] Dù đã ký kết các hiệp định tự do hóa thương mại với Trung Quốc như ACFTA, nhưng Việt Nam chưa nhận được những lợi ích từ thương mại giống như những gì mà Malaysia, Thái Lan, Philippines hay Singapore nhận được.
Trừ khi có những rủi ro như chiến tranh, chiến tranh thương mại, ách tắc trong vận tải biển quốc tế... không nên bài trừ cực đoan đối với hàng hóa Trung Quốc vì lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế sẽ đem lại lợi ích cho Việt Nam nếu sử dụng nguồn lực để sản xuất các hàng hóa mình có ưu thế và nhập khẩu các hàng hóa mình không có ưu thế.
Nhưng để tránh trở thành “phân xưởng của công xưởng thế giới”, Việt Nam cần những thay đổi triệt để hơn từ nền sản xuất trong nước.
Về cách thức tổng quát, để tận dụng được lợi thế từ quan hệ thương mại với Trung Quốc, Việt Nam cần (i) cải thiện năng suất; (ii) tăng cường và cải thiện môi trường pháp lý cho các hoạt động thương mại; (iii) tái cơ cấu chuỗi sản xuất tại Việt Nam; (iv) cải thiện cơ sở hạ tầng và dịch vụ logistics; (v) nâng cao chất lượng của môi trường thể chế; (vi) phát triển công nghiệp phụ trợ.
Trong đó, việc cải thiện năng suất là sự cải thiện căn bản và lâu dài, quyết định tăng trưởng dài hạn của kinh tế Việt Nam. Việc thực hiện các cải cách từ (ii) đến (iv) là nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại Việt Nam. Việc cải cách này không thể tách rời cải thiện về môi trường thể chế. Phát triển công nghiệp phụ trợ là để giảm thiểu nhập siêu với Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN và phát huy hiệu ứng lan tỏa kỹ thuật của doanh nghiệp FDI. Bởi lẽ hiệu ứng lan tỏa kĩ thuật chỉ có thể thực hiện khi có sự liên kết hàng dọc (vertical linkages) giữa doanh nghiệp FDI với các công ty trong nước.   
Câu chuyện năng suất
Sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam thua kém hàng hóa Trung Quốc đến từ chuyện này. Năng suất lao động của nền kinh tế Việt Nam không chỉ thua kém Trung Quốc trong vòng 10 năm trở lại đây mà còn thua kém cả các nước ASEAN phát triển khác. Cải thiện năng suất là bài toán chủ đạo của doanh nghiệp và người lao động, song những hỗ trợ về mặt thể chế là biện pháp mà Nhà nước có thể thực hiện, bắt đầu từ cải thiện môi trường đầu tư như tinh gọn thủ tục hành chính, rút gọn thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Một môi trường cạnh tranh hơn cũng khiến doanh nghiệp không ngừng phải cải tiến nhằm tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí. Ngoài ra, Việt Nam cần đưa ra thêm nhiều ưu đãi với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp mới thành lập, cân bằng với những ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Để hỗ trợ người lao động, hệ thống giáo dục công cần hướng đến nâng cao kỹ năng và tay nghề chứ không chỉ kiến thức.
Để giảm độ phụ thuộc vào hàng hóa trung gian từ Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung, các biện pháp nhằm hỗ trợ công nghiệp phụ trợ và hướng vào thay thế hàng nhập khẩu cần được triển khai mạnh mẽ hơn
Môi trường pháp lý
Trong vấn đề tăng cường và cải thiện môi trường pháp lý cho các hoạt động thương mại (không chỉ với Trung Quốc), Việt Nam có thể (1) tăng cường thủ tục pháp quy trong thương mại biên giới với Trung Quốc và (2) thiết lập các hàng rào kỹ thuật. Hàng rào này bao gồm: quy định về biện pháp kiểm dịch động và thực vật; quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm như về kiểm tra chứng nhận, về dư lượng, bao bì, ghi nhãn sản phẩm, hóa chất, phụ gia...; quy định về truy xuất nguồn gốc sản phẩm; quy định về bảo vệ môi trường và nguồn lợi.
Tái cơ cấu chuỗi sản xuất
Việc tái cơ cấu chuỗi sản xuất trong các ngành xuất khẩu mà Việt Nam có thế mạnh sẽ làm tăng giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Chẳng hạn, đối với ngành dệt may, hiện 60% doanh nghiệp dệt may của Việt Nam là doanh nghiệp gia công cho nước ngoài (OEM); số còn lại sản xuất theo hợp đồng gia công (FOB1); chỉ có một số ít là doanh nghiệp sản xuất thiết bị gốc (FOB2) và nhà sản xuất thiết kế gốc (ODM); không có doanh nghiệp nào là nhà sản xuất thương hiệu gốc (OBM). Trong khi đó, giá trị gia tăng sẽ chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp ODM và OBM. 
Điều tương tự cũng diễn ra với ngành da giày khi số doanh nghiệp OEM của Việt Nam chiếm 45%.
Đối với nông nghiệp, mặc dù thoạt nhìn Việt Nam có lợi thế lớn nhưng cấu trúc thị trường của ngành nông nghiệp (đặc biệt là ở chuỗi cung ứng đầu vào và phân phối đầu ra) đều tồn tại tình trạng độc quyền. Người nông dân không làm chủ được về giá cả và dễ chịu tổn thương từ các biến động của thị trường bên ngoài.
Chẳng hạn, 100% cung ứng thức ăn chăn nuôi rơi vào tay các doanh nghiệp Thái Lan, Đài Loan, Pháp, Trung Quốc; 60-70% thức ăn cho cá tra và 90% thuốc thú ý, thủy sản cũng rơi vào tay doanh nghiệp FDI. Việc đầu tư vào các chuỗi sản xuất này hoặc đầu tư khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng nông sản, từ đó gia tăng giá trị xuất khẩu là tương lai của nông nghiệp Việt Nam. 
Điểm nghẽn cơ sở hạ tầng và logistics
Đây là “điểm nghẽn” của  tăng trưởng, khiến Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh trong thương mại, hoạt động xuất khẩu trực tiếp gặp khó khăn. Quốc lộ 1A xuống cấp nghiêm trọng và thường xuyên tắc nghẽn tại các nút trung chuyển hàng hóa. Vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt đã giảm 5%/năm trong giai đoạn 2006-2010 do ngành đường sắt quá lạc hậu. Đường thủy nội địa chiếm 18% vận tải hàng hóa nhưng lạc hậu, xuống cấp, hay tắc nghẽn. Vận tải biển chiếm 90% thương mại quốc tế của Việt Nam nhưng hệ thống cảng biển quy hoạch chưa hợp lý, chưa tính đến các khuynh hướng biến đổi của hải trình quốc tế hoặc chưa gắn chặt với hải trình quốc tế và chưa tận dụng lợi thế của Việt Nam so với các nước ASEAN lục địa.
Bài toán công nghiệp phụ trợ
Để giảm độ phụ thuộc vào hàng hóa trung gian từ Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung, các biện pháp nhằm hỗ trợ công nghiệp phụ trợ và hướng vào thay thế hàng nhập khẩu cần được triển khai mạnh mẽ hơn, nhưng phải trên cơ sở nhằm cải thiện năng suất lao động và gia tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, chứ không hướng tới những ưu đãi nhất thời về thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế đánh vào hàng thành phẩm cao. Trường hợp trì trệ của ngành sản xuất ô tô Việt Nam là một điển hình.
Tăng cường tái cấu trúc kinh tế, tái cấu trúc ngành sản xuất sẽ khiến cấu trúc hàng nhập khẩu thay đổi và có thể khiến độ phụ thuộc vào hàng hóa Trung Quốc giảm đi ở nhóm hàng hoá trung gian. Tuy nhiên, để có thể phát triển được công nghiệp phụ trợ, Việt Nam có lẽ cần tiếp tục phá giá tiền đồng để tỷ giá thực so với đồng đô la Mỹ giảm xuống chứ không phải tiếp tục tăng lên như hiện nay. Bởi với tỷ giá như hiện nay, việc nhập khẩu linh phụ kiện để lắp ráp xuất khẩu hoặc chuyển hẳn thành doanh nghiệp FDI thương mại có lợi hơn là đầu tư để phát triển công nghiệp phụ trợ.
Cần chú ý đến tỷ lệ tham gia của doanh nghiệp bản địa. Có chuyên gia kinh tế gần đây đã cảnh báo về nguy cơ kinh tế Việt Nam sẽ bị phân hóa thành hai khối tách biệt: doanh nghiệp FDI - doanh nghiệp bản địa thay vì doanh nghiệp bản địa liên kết, học hỏi và lớn mạnh từ việc hợp tác với doanh nghiệp FDI.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật đang đầu tư mạnh sang Việt Nam. Khuynh hướng này giúp phát triển công nghiệp phụ trợ nhưng cũng cho thấy sự hiện diện của doanh nghiệp Việt Nam bị lu mờ. Các dự án đầu tư lớn của Samsung tại Bắc Ninh và Thái Nguyên cũng đang và sẽ lôi kéo hàng trăm công ty nhỏ và vừa của Hàn Quốc sang để sản xuất linh kiện và các sản phẩm hỗ trợ khác (hiện nay họ nhập khẩu từ các cơ sở của Samsung tại Trung Quốc).
Phạm Sỹ Thành

Giảm phụ thuộc từ Trung Quốc

09:46:00 23/05/2014
[thesaigontimes.vn - 22/05/2014 - TS. Phạm Sỹ Thành và chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan] Nền kinh tế của chúng ta đang bị phụ thuộc vào Trung Quốc như thế nào, tác động và cần điều chỉnh chính sách ra sao, đặt trong bối cảnh căng thẳng giữa hai nước liên quan chủ quyền biển đảo hiện nay?
TBKTSG trao đổi với ông Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), và bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
TBKTSG: Đặt vấn đề nền kinh tế cần giảm phụ thuộc từ Trung Quốc trong lúc này, ông/bà tiếp cận dưới góc độ nào?
- Ông Phạm Sỹ Thành: Cho dù vấn đề “giảm phụ thuộc” được đặt ra trong bối cảnh hai nước đang căng thẳng, nhưng tôi mong nó sẽ được giải quyết và tư duy trên nền tảng mong muốn. Theo đó thì chính ra chúng ta cần “tận dụng tốt hơn nữa kinh tế Trung Quốc”. Một điều chắc chắn là dù quan hệ hai bên có tốt lên hay xấu đi thì chúng ta cũng phải thay đổi, xuất phát từ bài toán lợi ích hay giảm thiểu rủi ro cho chính mình.
Việt Nam chưa nhận được những ích lợi từ thương mại giống như những gì mà Malaysia, Thái Lan, Philippines hay Singapore nhận được từ Trung Quốc, vì vậy, cần cải thiện chất lượng thương mại với Trung Quốc. Trước hết, chúng ta xuất khẩu sang Trung Quốc các hàng thô, sơ chế, có giá trị gia tăng thấp và nhập khẩu các hàng thành phẩm có giá trị gia tăng cao. Điều này liên quan đến trình độ công nghệ và sự phát triển của công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam.
Thứ hai, cùng là mặt hàng nông sản, chúng ta xuất khẩu sang Trung Quốc 30 triệu đô la Mỹ thì nhập khẩu từ quốc gia này 300 triệu đô la Mỹ mặt hàng nông sản cùng loại. Điều này cho thấy hoạt động quản lý thị trường hoặc chính sách thương mại của Việt Nam đang có vấn đề.
Thứ ba, hàng hóa Việt Nam nếu theo con đường tiểu ngạch thì do thương nhân Trung Quốc thu mua tận gốc với giá rẻ, nếu theo con đường chính ngạch thì mới chỉ thâm nhập vào các tỉnh ven biên giới như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông mà chưa thể thâm nhập sâu vào nội địa Trung Quốc.
“Vấn đề của Việt Nam là (i) trong quá trình gắn kết như vậy với kinh tế Trung Quốc, chúng ta không tận dụng được đầy đủ các lợi ích của sự gắn kết, đồng thời (ii) chưa có các phương án thay thế trong trường hợp xảy ra rủi ro (ví dụ chiến tranh, chiến tranh thương mại, chiến tranh tiền tệ, đảm bảo an ninh năng lượng, vận tải biển quốc tế...)”.
                      TS. Phạm Sỹ Thành
Tôi từng có buổi làm việc với ông Ba Hạo - người sản xuất khoai lang tím từng được Thủ tướng vinh danh. Ông cho biết, vào những tháng cao điểm,
các công ty Trung Quốc vào tận ruộng của ông và những nông dân khác thu mua 1.000 tấn khoai lang/ngày. Tuy nhiên, chỉ có khoảng một phần ba số này được tiêu thụ tại Trung Quốc (đương nhiên với giá cao hơn nhiều so với nông dân ta bán trực tiếp cho thương lái Trung Quốc), còn lại có lẽ được xuất khẩu sang các nước khác với bao bì là hàng Trung Quốc. Trái ngược với điều này, mức độ thâm nhập thương mại của hàng Trung Quốc trên thị trường Việt Nam cao hơn nhiều.
- Bà Phạm Chi Lan: Tôi tư duy vấn đề trong hoàn cảnh có tính chất đặc biệt như hiện nay, gắn với những căng thẳng giữa hai nước. Đây là lúc cần có cái nhìn sâu hơn, tổng hợp hơn, gắn các sự việc với nhau. Trước nay nhiều người còn tin Trung Quốc, còn coi những chuyện mua rễ cây, đỉa... bất thường của thương nhân Trung Quốc có tính chất đơn lẻ, không tính đến tác hại tổng hợp để dự phòng khả năng xấu có thể xảy ra. Thế nhưng, hẳn nhiều người chưa quên chuyện khi có căng thẳng với Philippines về biển đảo, Trung Quốc ngừng nhập hàng ngàn tàu chuối từ Philippines, đó là đòn kinh tế, hỗ trợ cho đòn tranh chấp lãnh thổ.
Trước đây, những đụng độ của Trung Quốc với ngư dân của ta trên biển như bắt ngư dân, cưỡng đoạt tàu thuyền, phương tiện hành nghề, một số người coi đó là việc không thường xuyên nhưng nay, kéo giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của ta là vấn đề lớn. Xâu chuỗi chuyện giao thương với xâm chiếm lãnh hải, trong bức tranh quan hệ kinh tế mất cân đối giữa hai nước như hiện nay, sẽ thấy mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nền kinh tế của ta nếu tình hình tiếp tục căng thẳng. Việt Nam cần nhìn lại mình trong vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế. Ta chưa bàn gì đến hai nội dung tái cơ cấu đã có trong đề án tái cơ cấu tổng thể là tái cơ cấu ngành và tái cơ cấu vùng. Chúng ta cần điều chỉnh chiến lược công nghiệp hóa của mình. Trước đây, ta quá tập trung vào công nghiệp nặng. Sau đổi mới có quan tâm hơn đến công nghiệp nhẹ nhưng quá tập trung hàng tiêu dùng mà “quên” công nghiệp phụ trợ - sản xuất sản phẩm trung gian như vật liệu, linh kiện...
TBKTSG: Để nền kinh tế giảm phụ thuộc từ Trung Quốc hay cải thiện chất lượng thương mại với Trung Quốc thì... khó cỡ nào?
- Ông Phạm Sỹ Thành: Tôi muốn nói đến khó khăn trong việc làm thế nào để tận dụng đầy đủ lợi ích kinh tế từ Trung Quốc. Khó lớn nhất là thực lực kinh tế của Việt Nam cải thiện quá chậm trễ trong suốt thời gian dài. Số liệu cho thấy mức độ cải thiện năng suất lao động ngành công nghiệp của Trung Quốc trong giai đoạn 2001-2009 là xấp xỉ 8%, của các nước ASEAN dao động từ 1-3%. Trong đó, mức độ cải thiện của Indonesia và Việt Nam là thấp nhất - chưa đầy 1%.
Khó khăn thứ hai là công nghiệp phụ trợ - với tác động của chính sách ngành và tỷ giá - đã không vươn lên để đảm trách việc cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước và doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp FDI hiện nay chiếm 60% tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam (ước khoảng 80,9 tỉ đô la Mỹ), nhưng cũng chiếm gần 55% tỷ trọng nhập khẩu (57,7 tỉ đô la Mỹ).
Khó khăn thứ ba là nếu muốn thì việc tìm kiếm nguồn hàng thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc trong thời gian ngắn, với chi phí thấp như hiện nay cũng bất khả thi. Việc cần làm để đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước là các hàng rào kỹ thuật và công tác quản lý của các cơ quan chức năng.
Bên cạnh đó, do Việt Nam đã tham gia sâu rộng vào kinh tế quốc tế, nên Việt Nam cần tuân thủ chặt chẽ quy định của các định chế hoặc tổ chức này về tự do hóa thương mại và đầu tư; cần đối xử công bằng với các đối tác thương mại cũng như nhà đầu tư nước ngoài của các quốc gia có liên quan.
- Bà Phạm Chi Lan: Cái khó của chúng ta là đã trễ để điều chỉnh chính sách. Các nước đã hình thành, đã cạnh tranh rồi, không dễ để chúng ta bắt đầu và cạnh tranh với họ. Cái khó nữa là nguồn lực của chúng ta hiện nay hạn chế hơn so với lúc đầu đổi mới. Khó nhưng phải làm. Nhà nước phải thay đổi hệ thống chính sách khuyến khích, hệ thống phân bổ nguồn lực, theo tiêu chí hiệu quả sử dụng nguồn lực. Phải khuyến khích doanh nghiệp tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, tạo năng suất cao hơn.
“Việt Nam cần nhìn lại mình trong vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế. Ta chưa bàn gì đến hai nội dung tái cơ cấu đã có trong đề án tái cơ cấu tổng thể là tái cơ cấu ngành và tái cơ cấu vùng. Chúng ta cũng cần điều chỉnh chiến lược công nghiệp hóa của mình”.
                         Bà Phạm Chi Lan
Việt Nam đang đàm phán FTA với EU và đàm phán TPP. Đó là cơ hội cho chúng ta tìm kiếm các nhà cung cấp khác hay mời nhà đầu tư mới vào để làm công nghiệp phụ trợ. Yêu cầu của TPP, như xuất xứ nội khối của nguyên phụ liệu may, là sức ép để ta đưa nền kinh tế vào chu kỳ phát triển hợp lý hơn. Trong quá trình đàm phán, một mặt, ta thuyết phục các đối tác nới thời gian áp dụng cho mình, nhưng mặt khác, cũng phải bắt tay vào chuẩn bị đầu tư cho dệt, nhuộm. Ngay như TPP không đòi hỏi thì cũng cần phải làm vì miếng bánh xuất khẩu dệt may lớn như vậy, không thể chấp nhận mình chỉ hưởng phần nhỏ gia công.
TBKTSG: Ví dụ bất cân xứng rõ nhất trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc là tình trạng nhập siêu từ nước này. Nên nhìn nhận và ứng xử như thế nào với chuyện đó?
- Ông Phạm Sỹ Thành: Nhập siêu từ Trung Quốc không phải là điều “nguy hại” đối với kinh tế Việt Nam, nếu chúng ta có công nghệ tốt hơn hiện nay. Singapore nhập siêu lớn với Trung Quốc nhưng quốc gia này có công nghệ và có khả năng xuất khẩu các hàng có giá trị gia tăng lớn sang các nước khác và sang chính Trung Quốc từ nguồn hàng nhập khẩu này.
Vấn đề thực sự của nhập siêu với Trung Quốc là nhập khẩu từ nước này đang trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất thường ngày (bao hàm cả ý nghĩa cung cấp công nghệ) của các doanh nghiệp nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Chỉ 20% kim ngạch nhập khẩu là hàng tiêu dùng. Điều này tác động lâu dài đến khả năng nâng cấp công nghệ của doanh nghiệp bản địa. Có khả năng Việt Nam rơi vào hiệu ứng giải công nghiệp hóa sớm khi chỉ xuất khẩu được sang Trung Quốc các hàng hóa dựa vào tài nguyên và nhập khẩu hàng công nghiệp chế tạo thành phẩm. Về lâu dài, sẽ làm suy giảm năng suất của Việt Nam dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
- Bà Phạm Chi Lan: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, lại nằm cạnh nền kinh tế lớn như Trung Quốc, chúng ta không thể từ chối hoàn toàn hàng hóa Trung Quốc mà phải tìm cách để chung sống, hai bên cùng có lợi. Để làm được điều này, cần có sự nỗ lực về mặt chính trị, kinh tế và cả cư xử của người dân.
Cần làm rõ quan điểm chính trị, không thể vì lý do chính trị mà ưu tiên cho các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu các dự án EPC hay dễ dãi trong vấn đề nhập vật tư thiết bị, lao động. Chúng ta không kỳ thị nhưng cũng không phân biệt ưu đãi. Đòi hỏi tối cao là phải tuân thủ pháp luật Việt Nam.
Về mặt kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng khả năng sản xuất, từng ngành phải ngồi lại, hợp sức với nhau. Một mình Vinatex không làm công nghiệp phụ trợ nổi thì liên kết với doanh nghiệp khác, với ngân hàng, phải có chính sách của Nhà nước về việc này.
Vấn đề liên quan đến hàng tiêu dùng nằm ở phương thức nhập tiểu ngạch và bài toán quản lý chất lượng sản phẩm. Bộ Công Thương cũng thấy nhưng phản ứng khá yếu ớt, trong khi đáng lẽ phải đấu tranh với họ quyết liệt hơn để hạn chế nhập tiểu ngạch, chuyển sang chính ngạch. Phần mình, phải tăng cường hiệu quả giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước, đặt lợi ích đất nước lên trên lợi ích cục bộ ngành, địa phương.

Công bố báo cáo “Kinh tế Trung Quốc 6 tháng cuối 2013 và triển vọng 2014”

17:30:00 03/04/2014
[dangcongsan.vn - 03/04/2014 - TS. Phạm Sỹ Thành, TS. Lê Đăng Doanh] Ngày 3/4, tại Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và chính sách, Đại học Quốc gia Hà Nội (VEPR) đã tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Kinh tế Trung Quốc 6 tháng cuối năm 2013 và triển vọng 2014”.
Được biết, kinh tế Trung Quốc nửa đầu năm 2013 xuất hiện hai quý suy giảm tăng trưởng liên tiếp nối dài đà suy giảm từ năm 2012. Điều này làm dấy lên các quan điểm về việc Trung Quốc cần thực thi các cải cách sâu sắc hơn nữa. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc họp vào tháng 11/2013 được kỳ vọng đề xuất một lộ trình cải cách toàn diện cho Trung Quốc. Theo Hội nghị này, nền kinh tế Trung Quốc sẽ tập trung cải cách thị trường hàng hóa, cải cách doanh nghiệp nhà nước và chống độc quyền tự nhiên, cải cách hệ thống tài chính – ngân hàng, cải cách thuế, cải cách thể chế kinh tế nông thôn…
Báo cáo nghiên cứu định kì (6 tháng, báo cáo quý) về kinh tế Trung Quốc do nhóm nghiên cứu của Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) thực hiện nhằm phân tích thực chứng những tình hình quan trọng của kinh tế Trung Quốc và những ảnh hưởng của nó tới kinh tế khu vực, trong đó có Việt Nam.
Tại Hội thảo, trình bày khái quát những nét cơ bản về kinh tế Trung Quốc 6 tháng cuối 2013 và triển vọng 2014, TS Phạm Sỹ Thành, Giám đốc VCES cho biết, về cơ bản, kinh tế Trung Quốc ổn định tăng trưởng để điều chỉnh, trong đó, đầu tư vẫn đóng vai trò quan trọng. Đáng chú ý, tình hình sản xuất công nghiệp của Trung Quốc mặc dù có phục hồi trong 6 tháng cuối 2013 nhưng vẫn trong giai đoạn suy giảm kể từ 2010 đến nay. Tăng trưởng sản xuất công nghiệp cả năm 2013 đạt 9,7%, giảm 1 điểm phần trăm so với mức tăng của 2012. Sản xuất công nghiệp suy giảm trong và ngoài nước, đồng thời một số ngành xuất hiện dư thừa sản lượng do sản xuất vượt quá lượng tiềm năng, chi phí gia tăng, các chỉ số tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ (ROE) đều giảm. Mặc dù sản xuất công nghiệp suy giảm nhưng cầu lao động, việc làm lại gia tăng. Có thể lý giải hiện tượng này bởi sự phát triển của khu vực dịch vụ đã tạo ra việc làm mới bù đắp cho suy giảm việc làm mới tại khu vực công nghiệp.
Một vấn đề nữa mà kinh tế Trung Quốc phải đối mặt, theo TS Phạm Sỹ Thành là lao động di cư từ nông thôn. Với khoảng 120 triệu lao động đã di cư từ nông thôn ra thành thị kể từ 1978, 35% tăng trưởng dân số thành thị có nguồn gốc từ nông thôn, 50 - 60% trong tổng lao động sinh sau 1980 đang làm việc ở thành thị khiến cho lao động ở nông thôn bị suy giảm mạnh. Điều này đồng nghĩa với lao động trong nông nghiệp cũng suy giảm lớn, mất cân bằng trong thị trường lao động và khiến thị trường lao động bị méo mó bởi thu nhập của lao động từ nông thôn ra thành thị làm thêm chỉ bằng 36 - 40% lao động cùng ngành của khu vực thành thị. Thêm nữa, 50% lao động từ nông thôn ra thành thị làm thuê không được hưởng thụ hệ thống an sinh xã hội nào…
Thị trường vốn của Trung Quốc tập trung vào kiểm soát rủi ro, tỷ giá tiếp tục xu hướng tăng nhưng biên độ tăng không lớn bằng nửa 2012. Thị trường bất động sản bắt đầu phục hồi, đầu tư tăng trở lại. Đó là những tín hiệu sáng sủa, khá tích cực.
Chia sẻ về triển vọng 2014 của nền kinh tế Trung Quốc, báo cáo cũng chỉ rõ, khả năng với những cải cách từ Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, nền kinh tế sẽ có tăng trưởng khả quan hơn với tăng trưởng GDP dự đoán đạt 6,8 - 7,3% và CPI tăng ở mức 3 - 4%.
Như phân tích và trao đổi của các chuyên gia, các nhà quản lý tại Hội thảo, kinh tế Trung Quốc đang dần cho thấy sự suy yếu. Đây là một tín hiệu cũng chỉ ra không ít cơ hội và cả thách thức đối với Việt Nam. Theo đó, mặt tích cực là Việt Nam có thể thu hút thêm một số dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) khi các nhà đầu tư cân nhắc chuyển hướng ra khỏi Trung Quốc để đến các thị trường có điều kiện sản xuất tương đương nhưng bớt rủi ro hơn. Hơn nữa, Việt Nam lại là một trong những thị trường tiềm năng với triển vọng gia nhập TPP trong những năm tới, trong khi Trung Quốc thì không tham gia hiệp định này.
Có thể thấy, từ đầu năm 2014 đến nay, đã có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài chuyển cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam như Tập đoàn Samsung chuyển các nhà máy sản xuất điện thoại, Công ty Jetro Nhật Bản chuyên sản xuất máy in, máy photocopy và các thiết bị đa chức năng và Nhà máy sản xuất vũ khí của Israel…
Tuy nhiên, sự suy giảm trong kinh tế của Trung Quốc cũng sẽ khiến Việt Nam gặp không ít thách thức. Cụ thể, đối với lĩnh vực thương mại, tăng trưởng ngoại thương, Trung Quốc vẫn chưa phục hồi kể từ năm 2010 do sự giảm cầu tại 2 thị trường lớn là EU và Mỹ sau những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Đặc biệt với những điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ sẽ khiến cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng do gặp phải sự cạnh tranh lớn từ Trung Quốc. Chia sẻ của TS Lê Đăng Doanh tại Hội thảo cho rằng, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc xuất sang thị trường Mỹ và EU như dệt may, da giày, đồ gỗ... Đồng thời, các mặt hàng tiêu dùng giá rẻ của Trung Quốc sẽ có thêm cơ hội tràn vào thị trường Việt Nam, khiến thâm hụt thương mại với Trung Quốc có nguy cơ ngày càng mở rộng.
Thêm nữa, như đã phân tích ở trên, sản xuất công nghiệp của Trung Quốc suy giảm, sản lượng công nghiệp của Trung Quốc ở mức tồn kho cao. Điều này sẽ khiến quốc gia này thúc đẩy xuất khẩu sang các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Minh chứng cho sự ảnh hưởng này là thời gian qua, một trong những sức ép tới doanh nghiệp thép Việt Nam chính là phải cạnh tranh với các sản phẩm thép nhập khẩu từ Trung Quốc. Khi vào thị trường Việt Nam, giá thép cuộn của Trung Quốc rẻ hơn thép trong nước khiến cho doanh nghiệp Việt Nam rất khó cạnh tranh ngay trong thị trường nội địa.../.

Kinh doanh với Trung Quốc: Khi lợi thế trở thành…thất thế!

13:15:00 11/06/2013
[dantri.com.vn - 11/6/2013 - ông Vương Nãi Học, TS. Phạm Sỹ Thành, GS. Trần Văn Thọ] Thương mại Việt - Trung có nhiều thuận lợi khi chung đường biên giới và có lịch sử giao thương lâu đời. Nhưng cũng chính vì vậy, khi những lợi ích cục bộ của doanh nghiệp nảy sinh, mối lợi ích kinh tế mang tầm quốc gia đã bị bóp méo.
Diễn đàn hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc (Quảng Tây) chiều ngày 10/5 (Ảnh: BD)
Mục tiêu xa về cân bằng lợi ích thương mại

“Những trái dưa hấu mà lúc sớm tinh mơ còn trên đầu ruộng tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam thì buổi tối đã qua các cửa khẩu biên giới Quảng Tây và xuất hiện tại thành phố Vũ Hán, Trung Quốc. Một hôm sau thì đã đến tay những người dân Hàn Quốc và Nhật Bản. Những trái táo mà hôm qua còn treo đầu cành trong vườn táo Thiểm Tây mà hôm nay đã qua cửa khẩu biên giới đi vào Việt Nam, hai hôm sau lại xuất hiện trên bàn ăn của những người tiêu thụ tại Malaysia và Thái Lan”, ông Vương Nãi Học, Giám đốc Sở Thương mại Quảng Tây, Trung Quốc khái quát một cách hình ảnh về giao thương hai nước tại Diễn đàn thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc (Quảng Tây) tổ chức chiều 10/6/2013.

Trong bất cứ phát biểu nào của quan chức hai nước về mối quan hệ thương mại song phương, mục tiêu cân bằng lợi ích đều được nhấn mạnh. Tuy nhiên, sự cân bằng tuyệt đối dù khó đong đếm và không thể phản ánh được hết qua những con số thống kê, vẫn là một cái đích khó với tới.

Năm năm tới, Trung Quốc sẽ nhập khẩu khoảng 10.000 tỷ USD hàng hoá, quy mô đầu tư ra nước ngoài dự kiến 500 tỷ USD, số khách du lịch xuất cảnh sẽ vượt quá 400 triệu người. Liệu Việt Nam có kịp nắm bắt thiên thời, sử dụng tốt địa lợi mà ông Trịnh Quân Kiến, Tổng thư ký Hội chợ Trung Quốc - ASEAN đề cập?

Theo số liệu hải quan, tính đến hết tháng 4, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc 10,43 tỷ USD (những mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ USD có vải các loại, máy tính – sản phẩm điện tử và linh kiện, điện thoại và linh kiện, máy móc – thiết bị phụ tùng). Trong khi đó, chỉ xuất khẩu sang Trung Quốc 3,88 tỷ USD. Tính ra, trong 4 tháng đầu năm, Việt Nam nhập siêu 6,55 tỷ USD từ thị trường Trung Quốc.

Còn nhớ, hồi tháng 5/2011, cũng tại một hội thảo về thương mại Việt Trung, Thứ trưởng Thương mại Trung Quốc Khương Tăng Vĩ từng thể hiện mong muốn Việt Nam có thể áp dụng các biện pháp nhằm cải thiện tình hình mất cân bằng thương mại song phương. Theo đó, Trung Quốc sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam xúc tiến thương mại sang thị trường này với việc tổ chức các hội chợ thương mại, các đoàn khảo sát.

Như vậy, mong muốn giảm khoảng cách chênh lệch không phải chỉ từ phía Việt Nam mà còn từ Trung Quốc. Thế nhưng, vì sao Việt Nam vẫn triền miên nhập siêu từ thị trường này và gần như xoá bỏ mọi “thành tích” xuất siêu ở các thị trường khác trên thế giới?

“Làm sao kiếm lời lớn từ hàng chất lượng!”

Trong khoảng 10 bài phát biểu của các lãnh đạo bộ ngành, đại diện doanh nghiệp tại Diễn đàn hầu hết đều nhắc tới một lợi thế “kinh điển” của hai nước: “núi liền núi, sông liền sông”, đã có một lịch sử lâu năm bền chặt giữa nhân dân hai bên biên giới.

Tuy nhiên, có vẻ như chính lợi thế này, ở một góc độ nào đó lại biến thành bất lợi. Những con số hải quan đã cho thấy quy mô giao thương khổng lồ giữa hai nền kinh tế, nhưng vẫn chỉ là phần nổi của tảng băng chìm khi hầu hết hàng vận chuyển, nhập lậu qua biên giới, tuồn vào mọi ngóc ngách nông thôn và thành thị Việt Nam thì không con số thống kê nào phản ánh nổi.
Tâm lý chung của người tiêu dùng là ham rẻ (Ảnh minh họa: BD)
Không ngày nào trên các phương tiện truyền thông lại không có các phản ánh về thực phẩm, hàng hoá có chất độc hại tuồn về từ Trung Quốc và người viết cũng dám chắc rằng, không một quan chức nào của Trung Quốc muốn hàng hoá từ nước mình mang một cái mác xấu xí như vậy trong tâm trí người tiêu dùng thế giới.

Một cán bộ thuộc Vụ Thương mại biên giới và Miền núi (Bộ Công thương) nói: Không có một thương vụ kinh doanh nào chỉ xuất phát từ một phía, nguyên tắc là “thuận mua vừa bán”, thế nên doanh nghiệp mình yêu cầu hàng giá 7 đồng, dưới chuẩn chất lượng là 10 đồng thì họ không thể cung cấp hàng 10 đồng được, kể cả họ hoàn toàn sản xuất được hàng 10 đồng đó.

Anh Hưởng, một thương nhân từng nhập khẩu và kinh doanh xe máy Trung Quốc chia sẻ, “Hồi những năm 2000, chúng tôi kinh doanh mặt hàng này và rất phát. Một chiếc xe máy họ sản xuất giá thành 1 triệu đồng, chúng tôi nhập về và bán ra 6 triệu, và giá đó vẫn là rất rẻ với thị trường trong nước”. Anh cũng nói thêm “người Trung Quốc họ rất ‘tài’, họ có thể nhái theo bất cứ thứ hàng nào, từ linh kiện điện tử phức tạp cho đến cả chiếc tăm tre”.

Vị thương nhân đã “giải nghệ” này cũng thú nhận, doanh nghiệp Việt Nam khó cạnh tranh với doanh nghiệp Trung Quốc, vì họ không những có tay nghề, có kỹ thuật và nhân công đông đảo mà còn có sự tính toán rất sâu xa, đánh vào tâm lý ham rẻ của người tiêu dùng có thu nhập thấp. Trong khi đối tác phía Việt Nam lại cần lợi nhuận: “ Những doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi nếu lấy hàng chất lượng cao thì về bán cho ai? Loại hàng hoá đó không đem lại nhiều lợi nhuận, siêu lợi nhuận đến từ hàng giả, hàng kém chất lượng”.

“Mặt bằng thu nhập thấp khiến nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam đối với hàng rẻ, chất lượng kém luôn tồn tại, và đó cũng chính là lý do mà nguồn cung từ Trung Quốc đối với các hàng hoá này không ngừng chảy sang. Thay đổi ý thức người tiêu dùng cần quá trình và không thể bắt ép họ trở thành người tiêu dùng thông thái. Cái mà nhà chức trách có thể làm là áp hàng rào kỹ thuật theo đúng những quy tắc của ACFTA và WTO” – TS Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nhận định.

Cũng theo anh Hưởng, thị trường Trung Quốc tuy rất rộng lớn và màu mỡ, nhưng doanh nghiệp Việt Nam rất khó “tuồn” hàng vào, vì không thể cạnh tranh nổi, thậm chí cả trên sân nhà. “Ít doanh nghiệp Việt Nam có bản sắc. Chúng ta không thể cạnh tranh với họ những mặt hàng họ có cùng lợi thế”.

Năm 2012, người viết từng có dịp trò chuyện với GS Trần Văn Thọ, một trong ba nhà khoa học nước ngoài từng được mời làm thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn Kinh tế của Chính phủ Nhật Bản trong gần 10 năm, qua nhiều đời Thủ tướng Nhật.

GS Thọ, ngoài lưu ý rằng “nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam”, ông còn đưa ra khuyến cáo: từ tháng 1/2015, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, sản phẩm rẻ từ Trung Quốc chắc chắn sẽ còn tràn ào ạt vào thị trường Việt Nam. Còn tại thời điểm này, các thống kê cho thấy doanh nghiệp Trung Quốc đang chiếm rất nhiều các gói thầu xây dựng và nếu không có các yêu cầu về sử dụng lao động thì Việt Nam sẽ gặp bất lợi.

Trung Quốc chăm mua nguyên liệu thô, ít đầu tư vào Việt Nam

13:29:00 12/05/2014
[vnexpress.net - 10/05/2014 - TS. Phạm Sỹ Thành, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan] Quan hệ kinh tế, thương mại song phương hơn mười năm qua đều nghiêng về phía Trung Quốc, xuất siêu hàng tinh chế và chủ yếu nhập tài nguyên. Ít bỏ vốn đầu tư, nhưng các nhà thầu đến từ Trung Quốc đang có mặt tại nhiều dự án trọng điểm.
Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc từ năm 1991, nhưng đến nay trong thương mại và đầu tư, Việt Nam hầu như chưa được hưởng lợi nhiều. Trong thập niên 90 của thế kỷ trước, nhập siêu của Việt Nam từ thị trường đông dân nhất thế giới không đáng kể, nhưng đến đầu thế kỷ XXI thì cán cân thương mại thâm hụt ngày càng rõ rệt. Năm 2005, nhập siêu từ Trung Quốc là 2,7 tỷ USD, sang năm 2013, con số này lên tới 23,7 tỷ USD.
“Nếu quy mô thương mại hai chiều giữa hai nước được chia thành 3 phần thì Trung Quốc nhận được hai phần ba, còn Việt Nam một phần ba”, tiến sĩ Phạm Sỹ Thành - Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách - Trường Đại học Quốc gia (VECS) nhận định.
nhap-sieu-TQ-JPG-5047-1399620667.jpg
Kim ngạch thương mại của Việt Nam so với Trung Quốc và các quốc gia, khu vực khác trong năm 2013.
Đơn vị: tỷ USD. Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nghiên cứu của VECS chỉ ra một nửa hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc là hàng thô, sơ chế, trong khi nhập khẩu lại là hàng tinh chế (chiếm 85%). Các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam cũng đang sử dụng phần lớn công nghệ, nguyên liệu của Trung Quốc để phục vụ sản xuất, lên tới 80%.
Một số quốc gia giàu tài nguyên hoặc có trình độ công nghiệp hóa thấp hơn Trung Quốc bị hấp dẫn bởi việc xuất khẩu tài nguyên, hàng hóa thô, sơ chế. Trong khi đó, Trung Quốc lại xuất khẩu thành phẩm có khả năng cạnh tranh rất tốt sang quốc gia xuất khẩu tài nguyên.
"Hậu quả là sản xuất công nghiệp của quốc gia xuất khẩu tài nguyên bị thu hẹp, thậm chí không thể phát triển được do bị gắn chặt vào việc xuất khẩu tài nguyên và các hàng hóa có hàm lượng kĩ thuật thấp. Về lâu dài, nền kinh tế sẽ mất khả năng cải thiện năng suất do sản xuất công nghiệp bị thui chột và thiếu đổi mới, sáng tạo”, tiến sĩ Phạm Sỹ Thành cảnh báo về cái bẫy của hiệu ứng giải công nghiệp hóa sớm, hay còn gọi là bẫy tự do hóa thương mại trong mối quan hệ Việt - Trung.
vietnam-trung-quoc-7556-1399620667.jpg
Thương nhân Trung Quốc vận chuyển hàng hóa từ cửa khẩu vào Việt Nam. Ảnh: China Daily
Trong buôn bán tiểu ngạch, doanh nghiệp và nông dân Việt Nam cũng nhiều phen khốn đốn. Những ngày cuối tháng 3, hàng nghìn xe tải chở dưa hấu, thanh long đã bị ùn tắc tại cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn do phía Trung Quốc không chấp nhận thông quan. Điều này khiến thương lái phải chở dưa về bán trong nước với giá rẻ chỉ bằng một nửa mà vẫn lo không có người mua, phải chịu lỗ hàng chục triệu đồng, Trước đó, xuất khẩu cao su sang Trung Quốc qua cửa khẩu Móng Cái, Quảng Ninh có thời gian cũng bị đóng băng do một số thương nhân Trung Quốc tạm ngừng giao dịch.
"Những sự vụ bất thình lình này đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới giá hàng hàng hóa của Việt Nam, làm người nông dân điêu đứng", chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan bày tỏ.
Không chỉ vậy, những năm gần đây Trung Quốc còn có những chiêu thu mua nông sản lạ. Họ gom từ đỉa, lá dừa khô, rễ cây đến lá khoai lang... với giá cao bất thường, khiến người dân đổ xô đi bán nhưng một thời gian sau lại mất tích. Tình trạng này khiến Bộ Công Thương phải chính thức lên tiếng cảnh báo về các trường hợp lợi dụng thu mua để triệt cây, gây bất lợi cho thị trường.
Là đối tác thương mại lớn và lâu đời của Việt Nam, nhưng đầu tư từ Trung Quốc sang Việt Nam chỉ chiếm phần nhỏ bé so với các quốc gia khác. Số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài cho thấy, đến hết tháng 4/2013, các doanh nghiệp Trung Quốc đăng ký đầu tư tại Việt Nam 7,8 tỷ USD, bằng 3% tổng vốn nước ngoài được cấp phép. Ở khía cạnh khác, tính đến hết quý I/2013, Việt Nam có 12 dự án đầu tư tại Trung Quốc, vốn đầu tư 13 tỷ USD, xếp thứ 27/59 quốc gia đang có sự hiện diện của doanh nghiệp trong nước.
“Vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam rất ít. Tình hình chỉ được cải thiện trong vài năm gần đây khi Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại quốc tế và đang đẩy mạnh đàm phán gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)”, bà Phạm Chi Lan phát biểu. Theo các chuyên gia, nguyên nhân là do Trung Quốc đã thắng thầu hầu như tất cả các công trình năng lượng, khai khoáng trọng điểm của Việt Nam. Tuy nhiên, những điều tiếng về nhà thầu Trung Quốc đang là điểm nhức nhối thời gian qua.
TQ-JPG-3846-1399620667.jpg
Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Trung Quốc và các quốc gia, vùng lãnh thổ vào Việt Nam đến cuối tháng 4/2014. Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài
Thời báo Kinh tế Sài Gòn mới đây dẫn báo cáo của Bộ Giao thông vận tải đánh giá năng lực các nhà thầu cho hay, trong khoảng 45 nhà thầu chưa đáp ứng yêu cầu, có nhiều công ty của Trung Quốc như Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc thi công đường sắt đô thị tuyến Cát Linh - Hà Đông, Công ty Xây dựng Quảng Tây, Tổng công ty cầu đường Trung Quốc, Công ty cổ phần hữu hạn viễn thông Trung Hưng (ZTE - Trung Quốc). Đặc biệt, tại dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông, con số nhà thầu Trung Quốc đưa ra đã bị đội vốn gần 100%, từ 552 triệu USD lên 891 triệu USD.
“Nhà thầu Trung Quốc thường thắng thầu bằng giá thấp, nhưng trong quá trình thực hiện họ lại đội giá lên, cuối cùng là mức giá công trình có thể đắt hơn nhiều so với trước. Đây là cách thức chơi không sòng phẳng”, bà Phạm Chi Lan bày tỏ.
Giá rẻ cũng đi kèm với chất lượng thấp. Bà Phạm Chi Lan bày tỏ sự bức xúc khi nhiều công trình do nhà thầu Trung Quốc xây dựng xuống cấp nhanh chóng sau khi bàn giao, ngoài ra họ cũng đưa cả nhân công, thiết bị từ Trung Quốc sang trong khi là nhà thầu, họ phải thuê nhân công trong nước cũng như hạn chế sử dụng các thiết bị nhập.
Do vậy, để đối phó với những hành vi kinh doanh bất lợi từ Trung Quốc, tiến sĩ Phạm Sỹ Thành cho rằng Việt Nam cần phải tăng năng suất để thúc đẩy ngành công nghiệp trong nước, từ đó hạn chế nhập thiết bị, máy móc. Điều này phải bắt đầu từ cải thiện môi trường đầu tư, giành nhiều ưu đãi hơn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp mới thành lập, cân bằng với những ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài…Triển khai mạnh mẽ hơn việc phát triển công nghiệp phụ trợ hướng vào thay thế hàng nhập khẩu, trên cơ sở gia tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước chứ không hướng tới những ưu đãi nhất thời về thuế.
Đồng thời, thiết lập ngay các hàng rào kĩ thuật đối với hàng hóa Trung Quốc, chẳng hạn quy định về biện pháp kiểm dịch động và thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm bao gồm quy định về kiểm tra chứng nhận, dư lượng, bao bì, ghi nhãn sản phẩm; quy định về hóa chất, phụ gia; quy định về truy xuất nguồn gốc sản phẩm, bảo vệ môi trường và nguồn lợi
Ngoài ra, để hạn chế tình trạng chảy máu tài nguyên, vị chuyên gia này đề xuất Việt Nam cần có chính sách khai khoáng hợp lý để tối đa hóa lợi nhuận của ngành. Đồng thời, xây dựng hệ thống thuế và phí tài nguyên cho phép Chính phủ tái phân bổ nguồn thu này một cách hiệu quả vào các lĩnh vực sản xuất. Thiết lập tài khoản kế toán tài sản và tham gia hệ thống minh bạch EITI để quản lý nguồn lợi thu được từ xuất khẩu tài nguyên.
Về đầu tư, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã chủ động đầu tư vào các tỉnh Việt Nam nhằm tận dụng những ưu đãi đối với nước thành viên TPP mà Việt Nam đang tham gia đàm phán. Trong đó, với những ngành như dệt may, da giày, việc đầu tư nhà máy sẽ đặt Việt Nam trước thách thức quản lý việc xử lý nước thải công nghiệp bởi những ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp này đều là những ngành có mức độ ô nhiễm nặng nề. “Việt Nam cần rút ra bài học từ các sự vụ doanh nghiệp xả thải gây ô nhiễm môi trường trước đây”, bà Phạm Chi Lan nói.
Để tránh chọn nhà thầu kém chất lượng, vị này cũng đề xuất Chính phủ cần chú trọng hơn đến vấn đề chất lượng, thay vì chỉ đề cao giá các nhà thầu đưa ra và phải mở rộng cho nhiều đối tượng nhằm chọn lựa đơn vị hợp lý nhất.
“Đừng ham giá rẻ. Quan hệ kinh tế quá dễ dãi với Trung Quốc nhiều khi sẽ khiến Việt Nam phải gánh hậu quả”, bà nhấn mạnh.

Việt Nam đối mặt “lời nguyền tài nguyên mới” từ Trung Quốc

19:14:00 27/05/2013
[giaothongvantai.com – 27/5/2013 – VEPR] Sáng 27/5, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VEPR và trường ĐH Kinh tế- ĐH Quốc gia Hà Nội tổ chức hội thảo công bố Báo cáo Thường niên kinh tếViệt Nam 2013 với chủ đề ''Trên đường gập ghềnh tới tương lai".
Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam là chuỗi báo cáo được xuất bản hàng năm, nhằm tổng kết các vấn đề kinh tế lớn một năm qua, đồng thời thảo luận về viễn cảnh kinh tế năm tới và khuyến nghị chính sách trong bối cảnh hiện thời.
TS. Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, công bố Báo cáo Thường niên kinh tế Việt Nam 2013
Báo cáo năm nay, với tựa đề “Trên đường gập ghềnh tới tương lai”, bao gồm 7 Chương và 2 Phụ lục. Cung cấp một cái nhìn và đánh giá toàn cảnh về kinh tế thế giới, cũng như kinh tế Việt Nam trong năm 2012, các khuynh hướng chính trên các khía cạnh lớn như tăng trưởng và lạm phát, cấu trúc kinh tế, các cân vĩ mô đối lớn, chu kỳ kinh tế và đánh giá diễn biến chính sách kinh tế vĩ mô thời gian qua, làm cơ sở để dự báo triển vọng kinh tế trong năm 2013.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã đưa ra cảnh báo về nguy cơ công nghiệp hóa không thành công của Việt Nam sau khi gia nhập Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc trước sức ép từ tác động từ sản xuất và thương mại Trung Quốc.
Lệ thuộc vào việc khai thác tài nguyên xuất khẩu quá nhiều, Việt Nam
sẽ phải đối mặt với "lời nguyền tài nguyên mới" (Ảnh minh họa)
Báo cáo phân tích, tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc gần 10% liên tục trong 30 năm qua đã đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Sự phát triển của “công xưởng của thế giới” đòi hỏi nguồn lực đầu vào khổng lồ mà bản thân Trung Quốc không thể đáp ứng hết được. Do vậy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và kinh tế Trung Quốc đã tạo ra một nhu cầu lớn trên quy mô toàn cầu về tài nguyên, nhiên liệu, hàng hóa trung gian, làm thay đổi diện mạo phát triển công nghiệp toàn cầu. Sự thay đổi này một mặt tác động đến sự phân công chuyên môn hóa toàn cầu, mặt khác đã gián tiếp làm thay đổi khuynh hướng sản xuất của nhiều nước trên thế giới, như việc khiến một số nước bị hấp dẫn bởi việc xuất khẩu tài nguyên, hàng hóa thô và sơ chế sang Trung Quốc.
Nói cách khác, dưới sức ép nhập khẩu của Trung Quốc trên toàn thế giới, giá cả liên tục tăng đối với nhóm hàng tài nguyên và hàng sơ chế, trong khi đó các sản phẩm công nghiệp từ Trung Quốc tung gia thị trường lại có giá cả thấp hơn nhiều so với các nước, đã khiến các nước đi sau, trong đó có Việt Nam không đủ sức cạnh tranh, phải thoái lui khỏi các ngành sản xuất chế tác công nghiệp. Đồng thời, do nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nên Việt Nam khó tránh khỏi việc bị cuốn hút vào con đường “khai thác tài nguyên xuất khẩu”. Do đó nguồn lực bị rút khỏi khu vực sản xuất công nghiệp, khiến đất nước mất dần mất khả năng cạnh tranh.
Xét về ngắn hạn, đây là khuynh hướng đang được nhiều nước đang phát triển hướng tới để đảm bảo sự ổn định kinh tế, nhưng về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến tốc độ chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và tốc độ công nghiệp hóa của nước ta. Điều này được biết đến như là vòng xoáy “giải công nghiệp hóa” trong bối cảnh mới, hay còn được gọi là “lời nguyền tài nguyên mới” mà Việt Nam đang vướng phải.

Mô hình Trung Quốc và quan hệ với Việt Nam

10:44:01 12/03/2013
[Tuần Việt Nam - Đoan Trang, Đặng Phong, Nguyễn Đức Thành - 30/9/2009] Nhân 60 năm Quốc khánh Trung Hoa, báo chí TQ có những bài viết về thành tựu phát triển đất nước, trong đó nhắc tới sự thành công của mô hình kinh tế kiểu TQ. Sự thực thì mô hình đó như thế nào và có sự tương đồng gì giữa TQ và VN? Chưa có một định nghĩa cuối cùng, nhưng các học giả Trung Hoa cũng như phương Tây đã bàn nhiều về mô hình phát triển Trung Quốc. Những từ thường được dùng để mô tả nó là: cải cách, mở cửa, thử nghiệm, chuyển đổi từ bên trong, tiến bộ từng bước, Nhà nước định hướng mạnh, tăng trưởng kinh tế, và ổn định chính trị. Cải cách ở Trung Quốc và Đổi mới ở Việt Nam   Thật ra, sự so sánh để tìm những tương đồng và khác biệt giữa mô hình Trung Quốc và Việt Nam không phải vấn đề bây giờ mới được nhắc tới. Ít nhất thì các nhà khoa học ở cả hai nước đã từng tiến hành nhiều hội thảo và thực hiện các công trình nghiên cứu so sánh công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam.
[Tuần Việt Nam - Đoan Trang, Đặng Phong, Nguyễn Đức Thành - 30/9/2009]
Nhân 60 năm Quốc khánh Trung Hoa, báo chí TQ có những bài viết về thành tựu phát triển đất nước, trong đó nhắc tới sự thành công của mô hình kinh tế kiểu TQ. Sự thực thì mô hình đó như thế nào và có sự tương đồng gì giữa TQ và VN?

Chưa có một định nghĩa cuối cùng, nhưng các học giả Trung Hoa cũng như phương Tây đã bàn nhiều về mô hình phát triển Trung Quốc. Những từ thường được dùng để mô tả nó là: cải cách, mở cửa, thử nghiệm, chuyển đổi từ bên trong, tiến bộ từng bước, Nhà nước định hướng mạnh, tăng trưởng kinh tế, và ổn định chính trị.
Cải cách ở Trung Quốc và Đổi mới ở Việt Nam

Thật ra, sự so sánh để tìm những tương đồng và khác biệt giữa mô hình Trung Quốc và Việt Nam không phải vấn đề bây giờ mới được nhắc tới. Ít nhất thì các nhà khoa học ở cả hai nước đã từng tiến hành nhiều hội thảo và thực hiện các công trình nghiên cứu so sánh công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam.

Trung Quốc bắt đầu cải cách từ năm 1978, còn Việt Nam từ năm 1986. So với phần còn lại của thế giới cũng tiến hành chuyển đổi (Liên Xô, các nước Đông Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin), hai nước chia sẻ nhiều điểm chung hơn, chẳng hạn cả hai đều kiên trì con đường xây dựng CNXH, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. 

Trung Quốc ngày nay. Ảnh: baodanang.vn

Điều này khác xa Đông Âu và Liên Xô - là nơi mà, theo GS lịch sử kinh tế Đặng Phong, “đảng Cộng sản chỉ dẫn dắt quá trình chuyển đổi chưa được một nửa con đường, sau đó thì những khủng hoảng chính trị đã làm cho đảng Cộng sản ở các nước đó không còn là người điều hành cuộc chuyển đổi nữa”.

Bên cạnh đó, nội dung đổi mới ở Việt Nam và cải cách ở Trung Quốc còn giống nhau ở một số điểm lớn, như: đa dạng hóa cơ cấu sở hữu (chuyển sang kinh tế nhiều thành phần); mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất hướng về xuất khẩu, v.v…

Chính sự tương đồng đó, cùng với việc Việt Nam tiến hành đổi mới sau Trung Quốc 8 năm, đã làm nảy sinh nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sao chép mô hình phát triển của Trung Quốc. Gần đây, khi nhìn lại sự thành công của mô hình này, tờ Nhân Dân Nhật Báo số ra ngày 18/9 có bài viết nhận định Việt Nam là trường hợp “sao chép toàn diện và thành công nhất mô hình Trung Quốc”.

Cùng một thứ thuốc trị bệnh…

Nói cho đúng thì trong những năm đầu của công cuộc chuyển đổi, Việt Nam và Trung Quốc không ai sao chép ai, mà cả hai đều thực hiện những “phương thuốc” nhỡn tiền phải dùng để chữa trị những “căn bệnh” chung.

Căn bệnh đó, với các triệu chứng như tập trung bao cấp, sở hữu toàn dân và tập thể, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…, xuất phát từ việc sao chép mô hình của Liên Xô.

Ông Đặng Phong có một so sánh hài hước: “Tóm lại là cả hai đều ăn ổi xanh, ăn ổi xanh thì đều táo bón, tức là đời sống khó khăn, kinh tế đi xuống, bế tắc, khủng hoảng. Cả hai táo bón thì đều cùng phải uống thuốc”.

Thế rồi, trong quá trình chữa bệnh, cả hai cùng có các phản ứng giống nhau. Ví dụ như nạn vỡ bong bóng tín dụng. Ở Việt Nam giai đoạn đầu đổi mới có tình trạng bể hụi, vỡ quỹ tín dụng. Ở Trung Quốc những năm 1992-1993 cũng xảy ra việc hàng loạt ngân hàng phá sản.

Sau này, hai nước lại tiếp tục chứng kiến bong bóng chứng khoán, méo mó trên thị trường bất động sản, sự phình to và hoạt động không hiệu quả của khối quốc doanh… Về mặt xã hội, cả hai đều phải đương đầu với các vấn đề gay gắt như tham nhũng tràn lan, bất bình đẳng xã hội mở rộng, bần cùng hóa ở một bộ phận dân cư nông thôn miền núi. (1)

Như vậy, có thể thấy là hai “bệnh nhân” mắc bệnh giống nhau, dùng thuốc giống nhau và cùng trải qua các phản ứng tương tự.

Tuy nhiên, do mức độ bệnh và thời gian phát bệnh khác nhau nên liều dùng và thời điểm dùng thuốc của hai “bệnh nhân” lại khác nhau.

Mỗi người dùng một khác…

Hàng hóa TQ vươn đến mọi ngõ ngách. Ảnh: Thế giới tiêu dùng
Nói về mức độ của căn bệnh, thì Trung Quốc “bị” nặng hơn Việt Nam, do nền sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng trong thời kỳ Đại nhảy vọt, Công xã nhân dân và Đại cách mạng Văn hóa. Cạnh đó, ở Trung Quốc kỷ cương rất chặt, Nhà nước quản lý tập trung cao độ, thị trường tự do bị xóa sổ. Trong khi ở Việt Nam, nông dân vẫn còn được 5% đất để kinh doanh sản phẩm phụ, và chợ đen vẫn tồn tại với sức sống rất mãnh liệt, dai dẳng.

Trung Quốc cũng bị đẩy vào tình thế phải cải cách sớm hơn Việt Nam, do không có được “bầu sữa viện trợ” kéo dài như Việt Nam.

“Bệnh” nặng hơn và thời gian “phát bệnh” diễn ra trước nên Trung Quốc dùng “thuốc cải cách” trước và có những khác biệt so với Việt Nam. Ngoài ra, thời kỳ 1978-1986 cũng là khoảng thời gian dài quan hệ hai nước căng thẳng nên sự sao chép, học tập về mô hình cải cách là không thể có.

Sự khác biệt lớn nhất được GS Đặng Phong đúc kết trong một câu: “Ta phá rào từ dưới lên, còn Trung Quốc phá rào từ trên xuống”.

Trung Quốc đã đi theo con đường từ lý luận tới thực tiễn, từ chỉ đạo của T.Ư. tới hành động của địa phương. Sau khi đã có những đột phá về lý luận nhằm giải quyết các bế tắc, Trung Quốc mới cho thực hành.

Trong khi đó, Đổi Mới của Việt Nam lại bắt đầu từ những vụ “phá rào” ở cơ sở, sau đó được T.Ư. chấp nhận và cuối cùng trở thành chính sách. Ví dụ, chính sách khoán bắt đầu từ những hiện tượng tự phát và làm chui của nông dân, mà lãnh đạo địa phương hoặc đồng ý cho làm và “bao che” trước T.Ư., hoặc lờ đi.

Có thể kể tới các vụ phá rào “ngoạn mục” như khoán chui ở Hải Phòng, xóa tem phiếu ở Long An, cơ chế mua cao bán cao ở An Giang, mua lương thực với giá thị trường để bán “cứu đói” cho TP HCM…

Ông Đặng Phong nhận xét: “Thật ra người Việt Nam đã “phá rào” suốt từ… thời chống Mỹ. Đặc tính của dân mình là vậy, linh hoạt, có khả năng xoay xở cao và rất khó đi vào kỷ cương. Ở Trung Quốc, Nhà nước nghiên cứu bài bản rồi mới quyết định dỡ bỏ hàng rào cũ, lập hàng rào mới. Còn ở Việt Nam ta là dân chúng, địa phương chủ động dỡ bỏ quách hàng rào, chẳng theo lý thuyết nào cả”.

Đổi mới, vì thế, mang phong cách rất Việt Nam.

Có hay không sự sao chép?

Đổi mới ở Việt Nam không phải là sự sao chép mô hình cải cách của Trung Quốc. Tuy nhiên, vào những năm về sau trong công cuộc chuyển đổi, có những quyết sách kinh tế - xã hội của Việt Nam được tiến hành sau và mang nhiều nét tương tự như Trung Quốc.

Chẳng hạn như chính sách trao quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho khối doanh nghiệp tư nhân, thành lập thị trường chứng khoán, cổ phần hóa DNNN… đều được tiến hành ở Việt Nam sau Trung Quốc vài năm.

Việt Nam và Trung Quốc cũng là hai nền kinh tế duy trì vai trò chủ đạo, định hướng phát triển của Nhà nước. Cả hai quốc gia đều thực hiện sở hữu Nhà nước về đất đai, chế độ quản lý chặt chẽ của Nhà nước về tỷ giá hối đoái.

Thế vận hội BK 2008 - một dịp để TQ "khoe mình" trước thế giới. Ảnh: VNN

Không thể khẳng định có sự sao chép với chủ ý hay không, nhưng điều chắc chắn là, như trên đã nói, có những phương thuốc chung để hai nước trị các căn bệnh chung. Thêm vào đó, việc một nền kinh tế đi sau tham khảo, học tập hoặc chịu ảnh hưởng từ mô hình của nền kinh tế đi trước là chuyện thường gặp trên thế giới.

TS kinh tế Nguyễn Đức Thành, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR), giải thích điều này bằng một ví dụ thú vị: “Trong khoa học về chiến lược, có khái niệm gọi là “hiệu ứng con ngỗng con”. Khi con ngỗng ra đời mà bị cách ly với mẹ, nó có thể tưởng nhà bác học chăm nuôi nó chính là mẹ, và nó sẽ đi theo nhà bác học đó như thể đó là ngỗng mẹ vậy. (2)

Hiện tượng tương tự xảy ra trong kinh doanh và xây dựng chiến lược phát triển: Các nền kinh tế nhỏ, chậm phát triển, đi sau, rất dễ bị ảnh hưởng, thậm chí sao chép một cách có chủ ý từ nền kinh tế có quy mô lớn hơn, gần gũi mình và đi trước mình, vì nghĩ rằng như thế là tốt, là ưu việt.

Việt Nam hiện đại chịu ảnh hưởng nhiều từ Pháp, ví dụ như luật dân sự của Việt Nam áp dụng nhiều điều của Pháp. Trong kiến trúc, chúng ta cũng có xu hướng cho rằng kiến trúc Pháp là đẹp, là sang trọng, tóm lại là ưu việt.

Trung Quốc ở gần và có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về thể chế, dễ học, nên Việt Nam có tiếp thu mô hình Trung Quốc cũng không lạ".

Một học giả gốc Hoa ở Mỹ, Li Tan, cũng từng khái quát hóa mô hình phát triển của tất cả các nền kinh tế đi sau, bao gồm cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, thành sự phát triển dưới định hướng của nhà nước.

Li Tan viết: “Mô hình phát triển dựa vào nhà nước sẽ tiếp tục có sức hấp dẫn đối với các nền kinh tế phát triển sau… vì nó cho phép các nước nghèo phát triển nhanh hơn để thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế”. 

“Chiến lược đuổi kịp”

Copy, sao chép không bao giờ là tiêu cực, trừ trường hợp copy một cách mù quáng, nông cạn” - TS Nguyễn Đức Thành khẳng định. GS Đặng Phong nhận xét: “Tôi nghĩ Trung Quốc có những đặc điểm, những chính sách mà nếu Việt Nam học tập được thì tốt quá!

Ví dụ như trong chiến lược phát triển, cả hai nước cùng hướng về xuất khẩu, nhưng Trung Quốc đi xa hơn Việt Nam ở chỗ họ lấy nguyên liệu của toàn thế giới để sản xuất hàng hóa bán cho thế giới. Còn Việt Nam ta xúc nguyên liệu của mình đi bán để mua hàng hóa bên ngoài về tiêu xài”.

Trung Quốc đi xa hơn Việt Nam ở chỗ họ lấy nguyên liệu của toàn thế giới để sản xuất hàng hóa bán cho thế giới. Ảnh: mekongnet.ru

Nhiều người cũng đánh giá cao quyết tâm chống tham nhũng của chính quyền Trung Quốc, sự nghiêm minh của pháp luật, kỷ cương trật tự, hoặc cơ chế sử dụng nhân sự. GS Đặng Phong nói: “Phải thừa nhận rằng Trung Quốc đào tạo, sàng lọc và tuyển dụng cán bộ ngày càng tốt hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý của họ thật sự rất cao”.

Một nhà kinh tế khác cũng nói về một số chính sách của Trung Quốc mà Việt Nam nên xem xét tham khảo. Ví dụ chủ trương cho các công ty quốc doanh thuê chuyên gia nước ngoài làm quản lý, trả lương rất hậu hĩnh. Hoặc chủ trương trao quyền tự chủ cho hệ thống trường đại học, khuyến khích việc đầu tư của tư nhân ra nước ngoài…

Cho đến nay, có thể nói Trung Quốc thực sự đã đi theo một mô hình kinh tế thể hiện rất rõ quyết tâm của Nhà nước: tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, kiên trì định hướng XHCN.

Với sự tương đồng về thể chế chính trị, hoàn cảnh xã hội, nếu Việt Nam có thể áp dụng điều gì từ Trung Quốc, như sự nghiêm minh của hệ thống pháp luật hay cơ chế sử dụng nhân sự cấp cao hiệu quả, thì chẳng phải là điều tốt hay sao?

(1) Tư liệu trong cuốn “Nghiên cứu so sánh Đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc” – công trình hợp tác giữa Trung tâm KHXH&NV Quốc gia (Việt Nam) và Viện KHXH Quảng Tây (Trung Quốc), GS.TS. Lê Hữu Tầng và GS. Lưu Hàm Nhạc chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2002.

(2) Tác giả của thí nghiệm về "hiệu ứng con ngỗng con" là nhà tâm lý học động vật hàng đầu Konrad Lorenz, Nobel về Y học năm 1973.

No comments: