Tranh luận về chính sách Biển Đông của Trung Quốc và đối sách của Mỹ, ASEAN, Việt Nam
Thứ tư, 30 Tháng 7 2014 18:48
Phiên hỏi đáp tập trung lý giải về hành vi ngày càng quyết đoán của Trung Quốc thời gian gần đây, sự thay đổi và cách tiếp cận của Mỹ nhằm ngăn chặn ý đồ, hành động chèn ép của Trung Quốc đối với các quốc gia yêu sách nhỏ hơn trong khu vực.
1. Câu hỏi 1
Đây là câu hỏi thuộc dạng “con gà và quả trứng”. Chúng ta đều cho rằng ASEAN, Úc… nên phối hợp hành động để đối phó với chính sách đe dọa của Trung Quốc một cách hiệu quả. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng Mỹ nên đóng vai trò lãnh đạo để tạo xung lực cho các nước trong khu vực, đặc biệt là trong bối cảnh đang có những tiếng nói cho rằng Mỹ bị suy yếu qua thất bại từ Ukraina, Syria…. Làm thế nào để lấp hố ngăn cách này? Chúng ta cần tích cực làm những gì vượt qua ngoài một số điều mà chúng ta đang làm? Liệu đã đến lúc để Hạm đội 7 có sự hiện diện mạnh mẽ hơn (trong khu vực – ND), một việc làm mang ý nghĩa biểu tượng để tránh khả năng sử dụng vũ lực trên thực tế ? Liệu chúng ta đã đến thời điểm đó chưa? Chúng ta sẽ phối hợp với nhau như thế nào? Ai sẽ là người mở đường? Liệu chúng chỉ có thể cùng hành động hay chúng ta phải hành động trước?
Patrick:
Chris, đây là vấn đề đang được tranh cãi và tôi nghĩ cuộc tranh luận sẽ còn kéo dài. Theo tôi, phải mất một vài năm nữa Mỹ mới có thể áp dụng các công cụ hữu hiệu, cả về song phương lẫn đa phương, bao gồm quan hệ Mỹ - Trung, để kiềm chế những diễn biến căng thẳng đang diễn ra như chúng ta đã biết.
Vì vậy, tôi đã nêu ra một vài công cụ liên quan đến việc sử dụng sức mạnh vào đúng thời điểm. Tuy vậy, tôi không cho rằng đó thực sự là giải pháp. Tôi chỉ muốn gợi ý cho giới hoạch định chính sách. Để giành được ảnh hưởng, Mỹ cần nhiều công cụ hơn thế. Ngay chính các quốc gia có yêu sách chủ quyền cần củng cố năng lực phòng không và chấp pháp tới một mức nhất định. Đúng là việc này sẽ dẫn đến một số phức tạp nhất định như Alan đã chỉ ra nhưng nó cũng sẽ giúp ngăn chặn.
Mỹ, cũng như bất kì nước nào khác trong khu vực, bao gồm Trung Quốc, đều không muốn xung đột xảy ra. Mỹ không thực sự muốn phải đối đầu với quốc gia nào trong vấn đề này nhưng Mỹ cần sẵn sàng chấp nhận một vài rủi ro lớn hơn, bao gồm thể hiện sức mạnh vào đúng thời điểm, không để các nhà lãnh đạo Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể đạt được lợi ích một cách dễ dàng bằng cách biến Đường 9 đoạn thành hiện thực.
Alan
Bạn đã từng nghe câu “lãnh đạo từ phía sau” chưa? Có nhiều điều có thể nói về việc Mỹ xuất hiện ở “chiến tuyến đầu” trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông. Tôi nghĩ sẽ có lợi cho Mỹ nếu như Mỹ đứng ra đây và làm đúng những gì Trung Quốc đang cáo buộc Mỹ làm. Trong thời điểm này, Mỹ đang ở thế thượng phong khi các quốc gia trong khu vực đang ủng hộ Mỹ kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chính các quốc gia này cũng đang phản ứng khá rõ rệt, dù có thể không mấy hiệu quả vào thời điểm này nhưng thật khó để Trung Quốc thấy rằng Mỹ đang cố gắng kiềm chế nước này khi nhìn vào chính sách phản ứng tích cực của Mỹ trong 3-4 năm qua.
Vì vậy, tôi nghĩ Mỹ có thể đạt được các mục tiêu chiến lược của mình, đó là duy trì an toàn các tuyến đường biển quốc tế, hỗ trợ đồng minh và bạn bè của Mỹ trong khu vực, một cách ngấm ngầm, theo cách không đối đầu và có thể được coi là đang phản ứng theo yêu cầu của các nước trong khu vực hơn là tự thúc đẩy lợi ích của mình .
Christoper
Tôi muốn bổ sung thêm một vài điểm. Tôi nghĩ một trong những vấn đề Alan vừa nói là Mỹ cần phải cân nhắc cẩn thận cách tiếp cận của mình. ASEAN đã minh chứng rằng tổ chức này cần một lãnh đạo dẫn đường. Vị trí đó không nhất thiết phải thuộc về Mỹ mà có thể thuộc về chính một nước ASEAN, như Indonesia chẳng hạn. Tuy nhiên, cần có một sự hiện diện mang tính tổ chức, dù gì thì các quốc gia này cũng trông chờ Mỹ đóng vai trò đó.
Dù Mỹ có xứng đáng với ảnh hưởng mà Mỹ có hay không, các nước, rõ ràng dõi theo từng đường đi nước bước và lắng nghe cẩn thận những điều Mỹ nói về những vấn đề này cũng như đối với Trung Quốc. Vì vậy, việc quan trọng đầu tiên chúng ta cần phải làm là đảm bảo mọi thứ ta làm, mọi điều ta nói đều phải được đưa ra trong bối cảnh trên, không chỉ trong phạm vi quan hệ song phương mà còn phải tính đến cách các nước khác trong khu vực nhìn nhận quyết định của chúng ta như thế nào (ví dụ như chuyến thăm của Tổng thống). Điều này đòi hỏi ta phải lên tiếng giải thích rõ ràng cho các đồng minh trước và sau khi tiến hành bất kì động thái nào. Nếu không, các nước sẽ tự giải thích hành vi của Mỹ theo ý mình, theo cách họ tự suy luận. Và khi họ làm như vậy, họ thường suy diễn ra điều xấu nhất có thể.
2. Câu hỏi 2
Trong một vài tuần trở lại đây, tôi nhận thấy có dấu hiệu các nhà phân tích cũng như giới chuyên gia tại Bắc Kinh nói với các nhà báo phương Tây về cách hành xử của Trung Quốc theo hướng không vừa ý. Một ý kiến còn cho rằng Mỹ nên tỏ rõ cho Trung Quốc thấy sẽ phải chuẩn bị trả giá cho những hành vi của mình. Một số người khác đặt ra nghi vấn về việc các nước Châu Á dường như không chấp nhận quan điểm chính thức của Trung Quốc về lịch sử bị sỉ nhục của nước này v.v... Các vị đánh giá về vấn đề này như thế nào? Liệu có phải nội bộ Trung Quốc đang cố kìm nén những luồng quan điểm khác nhau?
Christopher
Có thể tôi đã đọc bài báo tương tự và một điều khiến tôi ngạc nhiên đó là mặc dù các ý kiến được đưa ra với danh nghĩa nặc danh, nó làm chúng ta có cảm tưởng là rằng nội bộ Trung Quốc còn nhiều tranh cãi về việc liệu cách tiếp cận của Trung Quốc có đúng hay không. Điều này khá hiếm đối với các học giả Trung Quốc, đặc biệt lại là nói với một nhà báo phương Tây. Tôi không chắc rằng các tranh luận có ý nghĩa quan trọng bởi cuối cùng thì lãnh đạo vẫn là người đưa ra quyết định.
Theo tôi đây cũng là một nhân tố quan trọng, cho thấy ít nhất một vài người trong hệ thống dường như đang băn khoăn, cũng như tất cả chúng ta đều băn khoăn, liệu những gì Trung Quốc làm cuối cùng lại phản tác dụng với chính nước này hay không
Chúng ta cũng đã nghe rất nhiều bàn luận về việc tự ghi bàn vào lưới mình hoặc tương tự như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng chỉ trông chờ người khác tự ghi bàn vào lưới mình không phải là chiến lược đúng đắn mà là một hy vọng hão huyền thì đúng hơn.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên cân nhắc khả năng rằng có thể Trung Quốc không phải đang tự hại mình mà họ biết chắc chắn họ đang làm gì với chiến lược này, họ cho rằng chiến lược này sẽ hiệu quả
3. Câu hỏi 3
Xu thế trên Biển Đông hiện nay là rất đáng lo ngại. Vậy thì, tôi muốn hỏi, theo các vị, chiến lược tại Biển Đông nằm ở vị trí nào trong chính sách đối ngoại và đối nội tổng thể của Trung Quốc? Ví dụ, Hồng Công rõ ràng sẽ trở thành khủng hoảng với Trung Quốc trong một sớm một chiều. Đài Loan, 2 năm sau, có thể sẽ lại trở thành mối quan ngại lớn của Trung Quốc… Khi nhìn vào đối nội, ta có thể thấy Tập Cận Bình là một lãnh đạo cứng rắn, chấp nhận rủi ro, sử dụng biện pháp trấn áp nhiều hơn những người tiền nhiệm. Vậy các vị có thể kết nối chiến lược tại Biển Đông của Trung Quốc với các xu hướng đang nổi lên khác, cũng như chiến lược tại Hoa Đông? Bức tranh tổng quát có thể được phác họa như thế nào?
Christopher
Trong bài phát biểu khai mạc của mình, tôi không chỉ đơn giản miêu tả chiến lược tại Biển Đông mà đó là một chính sách toàn diện. Biển Đông và Biển Hoa Đông có liên quan với nhau. Nếu suy xét kĩ, tôi e rằng nếu chúng ta quá tập trung vào các diễn giải chiến thuật cho từng sự kiện một, chúng ta sẽ bỏ lỡ bức tranh toàn cảnh, từ đó dẫn đến kết luận sai lầm, các khuyến nghị chính sách sai lầm.
Ông hỏi liệu tôi có thể liên hệ tình hình đối nội và đối ngoại Trung Quốc, chuyện đó không hề khó. Tuy vậy, tôi không đồng ý với quan điểm cho rằng các quan ngại về sự phát triển chậm lại của nền kinh tế hay sự cần thiết đánh lạc hướng khác đang chi phối chính sách đối ngoại nước này. Theo tôi, đó là quan điểm sai lầm mặc dù vấn đề đối nội có ảnh hưởng đến vấn đề đối ngoại.
Chiến lược của Trung Quốc là một chiến lược tổng thể. Những gì chúng ta đang thấy, theo tôi, là mối quan hệ song song về nội trị và ngoại trị trong cách thức mà Tập Cận Bình vận hành đất nước. Điều cốt lõi liên kết chúng với nhau là thực tế ông Tập đang nỗ lực theo đuổi một loạt các cải cách cứng rắn. Mọi người thường quên văn kiện Hội nghị TW 3 khóa 18 năm 2013 của Trung Quốc có đưa ra hàng loạt cải cách trên nhiều lĩnh vực – điều tôi nghĩ đóng vai trò rất lớn trong việc ứng xử với bên ngoài của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, một quan điểm dần trở nên phổ biến tại Trung Quốc: bởi các thử thách là vô cùng khó khăn, để có thể giải thích cho những gì Trung Quốc muốn làm và tập hợp lòng dân, Trung Quốc cần tạo ra một cơn khủng hoảng hay một cảm giác cấp bách liên quan đến vấn đề đối nội và đối ngoại. Vì vậy, với tư cách là người quan sát bên ngoài, tôi cho rằng ông Tập dường như nhận định rằng Trung Quốc cần duy trì khủng hoảng trong và ngoài nước ở một mức nào đó để có thể theo đuổi những gì mình muốn.
Về vấn đề Hồng Công và Đài Loan, tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của ông. Tôi nghĩ Hồng Công đang đi trên con đường khá nguy hiểm một phần bởi Tập Cận Bình có vẻ có quan điểm cứng rắn hơn người tiền nhiệm về Hồng Công. Tôi đã cố lý giải điều này nhưng quả thực rất khó. Bố của Tập đã từng là thư ký tỉnh Quảng Đông khi Hồng Công thực chất vẫn là một nơi thù địch, có xu hướng “phản động”– đây là điều tôi thấy khá thú vị. Nếu ngồi ở Đài Bắc và dõi theo các diễn biến tại Hồng Công, tôi sẽ băn khoăn vì sao Trung Quốc có thể nghĩ ra ý tưởng “1 quốc gia 2 chế độ” lại khả thi. Điều này quả rất khó hiểu.
Tất cả những điều trên cần phải được nhìn nhận trong một mạng lưới tổng thể. Điều kết nối chúng với nhau chính là tư tưởng của ông Tập, là làm sao để Đảng Cộng Sản vẫn nắm quyền, làm sao để Trung Quốc giành lại được địa vị nước lớn. Và vì vậy, Trung Quốc sẽ hành xử như hiện giờ, cả trong đối nội lẫn đối ngoại, như thể Trung Quốc là một cường quốc đầy sức mạnh và tự tin. Tôi nghĩ đó là liên hệ chuẩn xác nhất.
Alan
Tôi có một vài điểm muốn nói về phần phân tích của Christopher. Những câu hỏi anh đã đặt ra là rất đúng. Theo tôi, nhìn từ góc độ chiến lược sâu rộng thì Biển Đông đã trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc bởi hai lý do. Thứ nhất, nếu nhìn từ 2 đến 5 năm trở lại đây Trung Quốc đã tập trung nhiều vào vấn đề biển đảo đặc biệt là tại Biển Đông bởi vùng biển này đã trở thành tuyến đường biển quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế trong tương lai của Trung Quốc. Trung Quốc cần nguồn tài nguyên năng lượng và do đó cần phải cân nhắc về tư duy địa chính trị cũng như kinh tế của mình. Thứ hai, chúng ta đều biết rằng người Trung Quốc mà cụ thể là Hồ Cẩm Đào đã nhắc tới eo biển Malacca với một mối quan ngại lớn nếu có xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc trong tương lai. Mỹ có thể sẽ cắt tuyến vận chuyển hàng hóa đường biển tại eo biển này tới Trung Quốc và do đó Trung Quốc đang quyết định dồn nguồn lực vào phát triển năng lực hải quân. Họ rõ ràng không chỉ làm điều này cho vui mà bởi vì đó là nơi có nhiều khả năng có tranh chấp nhất và đó là con đường biển huyết mạch của Trung Quốc và Trung Quốc đã quá mệt mỏi khi phải giao việc bảo đảm an toàn cho kinh tế của mình cho Hạm đội 7. Họ muốn người bảo vệ hàng hóa và năng lượng của Trung Quốc phải Hạm đội “Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa”
Christopher
Còn một vấn đề khác nữa, như Chris đã nói, là điều gì đang xảy ra? Theo tôi Trung Quốc đã nói rõ ràng với thế giới họ sẽ làm gì. Vào kì Đại hội Đảng thứ 18 của Trung Quốc năm 2012, Hồ Cẩm Đào đã nói rằng Trung Quốc đặt mục tiêu trở thành cường quốc biển. Họ chưa từng nói điều đó trong suốt hàng trăm năm. Như vậy Trung Quốc đã nói rõ mục tiêu của họ. Ngoài ra, quy mô và cấu thành của lực lượng của Quân đội Nhân dân Trung Quốc cần phải phát triển sao cho xứng tầm với sự sức mạnh gia tăng và lợi ích bên ngoài của Trung Quốc về vấn đề hàng hải. Tiếp đó Tập Cận Bình cũng đã có nhiều cuộc thảo luận tại Bộ chính trị Trung Quốc để tỏ rõ mục tiêu của Trung Quốc. Họ rất rõ ràng chứ không giấu giếm gì khát vọng của họ và chúng ta cần hiểu rõ những gì họ nói.
4. Câu hỏi từ Nguyễn Ngọc Bích (National Congress of Vietnamese Americans): Tôi có một điểm muốn bình luận thêm và một câu hỏi cho tiến sĩ Thủy. Nhiều khi chúng ta vướng vào cái bẫy của ngôn ngữ. Việc quốc tế gọi vùng biển này là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea)sẽ khiến nhiều người có cảm giác lầm tưởng rằng những quần đảo của vùng biển này thuộc vềTrung Quốc (trong khi theo cách gọi của Trung Quốc là Nam Hải còn không có từ Trung Hoa). Một tổ chức của Việt Nam là Nguyễn Thái Học đã tổ chức một cuộc phát động chữ ký để kêu gọi quốc tế đổi tên vùng biển thành Biển Đông Nam Á và hiện nay đã có hơn 100.000 chữ ký quốc tế. Chúng ta có thể đạt được đồng thuận về điều này. Đó là vấn đề thứ nhất. Thứ hai là chúng ta cũng bị vướng vào cái bẫy về cách diễn đạt. Tôi nghĩ rằng tuyên bố về đường 9 chín đoạn (giờlà 10 đoạn) của Trung Quốc là yếu và không có cơ sở rõ ràng. Trách nhiệm của phía Trung Quốc hẳn là sẽ phải giải thích xem những đường này có ý nghĩa gì. Với phần trình bày của tiến sĩ Thủy cũng như cách diễn đạt “No-U” của Việt Nam tôi cho rằng chúng ta đang tự tạo lợi thếcho Trung Quốc bởi chính nước này cũng không yêu sách toàn bộ đường nối liền này, vì sao chúng ta lại làm vậy?
Trần Trường Thủy
Trước tiên, về tên của vùng biển tôi không nghĩ nó được sử dụng để ám chỉ chủ quyền của một quốc gia. Lấy ví dụ, Vịnh Thái Lan không thuộc hoàn toàn về Thái Lan và Vịnh Mexico không thuộc hoàn toàn về Mexico. Ở Việt Nam thì chúng tôi gọi vùng biển này là Biển Đông (biển phía đông Việt Nam). Còn vềđường lưỡi bò của Trung Quốc, thứ nhất chúng ta chưa có sự giải thích rõ ràng về ý nghĩa của những đường này. Chúng tôi đã tiếp xúc với quan chức và học giả Trung Quốc và họ có nhiều cách diễn đạt khác nhau, từ việc những đường này thể hiện chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo hay nó thểhiện chủ quyền của Trung Quốc với vùng biển xung quanh các đảo… Từ nằm 2009 và 2010, sau khi Việt Nam và Malaysia đệ trình chung về thềm lục địa mở rộng, Trung Quốc đã gửi một bản đồ lên Liên Hợp Quốc và có thể thấy Trung Quốc đã bắt đầu rõ ràng hơn với việc định nghĩa đường lưỡi bò. Hiện nay họ đang dựa nhiều hơn vào lập luận chủ quyền theo quyền lịch sử đối với việc khai thác các tài nguyên cá và dầu mỏ, khí đốt. Nhưng điều quan trọng không phải về yêu sách của Trung Quốc mà là những hoạt động của Trung Quốc trong vùng đường lưỡi bò. Như tôi chỉ trên bản đồ, chúng ta có thể thấy nhiều sự cố và hoạt động Trung Quốc tiến hành nằm trong đường lưỡi bò. Trên thực tế họ muốn biến đường lưỡi bò thành ao nhà của Trung Quốc. Do đó trên bản đồ hình đường 9 đoạn chỉ mang ý nghĩa minh họa chứ không phải là để tuyên bố gì cả.
5. Câu hỏi từ Paul Hoàng (Hội Liên hiệp Việt-Mỹ tại Hoa Kỳ Federation of Vietnamese-American Communities of the USA): Chúng ta đều biết rằng Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ mật thiết trong một thời gian dài và Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thương mại với Trung Quốc. Việt Nam thì không có hiệp ước phòng thủ với Mỹ. Do đó, trong trường hợp Việt Nam yêu cầu sự trợgiúp, liệu Mỹ sẽ sẵn sàng đủ tin tưởng để giúp đỡ Việt Nam? Thứ hai, Mỹ đã phản ứng khác nhau trong vài trường hợp. Mỹ đã không có phản ứng trước việc Trung Quốc xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và Mỹ cũng không phản ứng thực sự mạnh mẽ trong vụ bãi cạn Scarborough giữa Philippines và Trung Quốc năm 2012. Mặc dù vậy, Mỹ lại hoàn toàn ủng hộ Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku. Vậy câu hỏi được đặt ra là liệu các nước Châu Á có thể tin vào quyết tâm của Mỹ trong việc bảo vệ các nước này trước Trung Quốc được không?
Patrick
Có thể thấy là bối cảnh lịch sử đóng vài trò quan trọng. Về quần đảo Senkaku, đây là một phần của tỉnh Okinawa theo quan điểm của Mỹ hậu Thế Chiến 2 khi Mỹ chiếm Nhật Bản Okinawa. Theo Hiệp ước phòng thủ tương trợ với Nhật Bản, những vùng lãnh thổ dưới sự chiếm đóng hoặc quản lý hành chính của Nhật Bản đều được bao gồm trong khoản 5 của hiệp ước. Qua thời gian Mỹ đã trao trả lại những vùng lãnh thổ chiếm đóng ở Nhật về tay chính phủ Nhật và giờ đây Nhật đang quản lý những vùng lãnh thổ này. Trong khi đó, thực tế là Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến với Việt Nam và những năm 1970, Mỹđã bắt đầu rút quân từ Việt Nam về Mỹ. Lúc đó có những lợi ích lớn hơn trong Chiến tranh Lạnh. Một sốtài liệu của Henry Kissinger mà tôi đã giải mật trong bài viết của mình cho thấy Mỹ đã ủng hộ cách tiếp cận mềm mỏng với Trung Quốc vì Mỹ lúc đó coi Trung Quốc là đối tác quan trọng trong việc kìm hãm sựvững mạnh của Cộng sản. Đó chính là bối cảnh của sự kiện Hoàng Sa 1974 : Mỹ đã nhìn theo hướng khác (ý là thay đổi đồng minh – ND). Những nước Châu Á có thỏa thuận với Mỹ cũng đang lo ngại liệu những thỏa thuận với Mỹ có giá trị nữa hay không. Trung Quốc đã trỗi dậy quá nhanh, và khả năng đã lớn hơn rất nhiều so với các nước láng giềng và đang cố gắng tăng cường ảnh hưởng chính trị và kinh tế của mình ở khu vực. Chúng tôi quan ngại về việc này, do đó chúng tôi muốn tăng cường hợp tác an ninh Mỹ - Việt và điều này dẫn tới giai đoạn bình thường hóa quan hệ. Việc bình thường hóa quan hệ đã mất một quãng thời gian, giai đoạn tiến tới đối thoại chiến lược nghiêm túc (cùng với việc tàu Mỹ thăm quân cảng Việt Nam) cũng đã mất một quãng thời gian và bước tiếp theo là tiếp tục phát triển quan hệan ninh quốc phòng cũng sẽ mất thời gian nhưng tôi nghĩ rằng sẽ không có liên minh giữa hai nước. Chúng tôi không đặt mục tiêu có căn cứ quân sự tại đây nhưng chúng tôi có thể tăng cường trao đổi, thậm chí là buôn bán vũ khí đặc biệt là thông tin tình báo trên biển. Chúng tôi có thể làm giống với những gì người Nhật đang làm với Việt Nam như việc trao tàu thực thi pháp luật. Chúng tôi không thể đảm bảo chắc chắn nhưng Mỹ sẽ sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam. Chúng tôi đang hành động theo những gì chúng tôi nghe được từ phía Hà Nội và Manila và Mỹ không phải ngẫu nhiên có cách tiếp cận mới này. Chúng tôi thực sự đã đáp ứng sự kêu gọi của các bạn nhưng chúng tôi không đứng đằng sau giật dây. Chúng tôi lắng nghe và muốn hợp tác với các nước khác trong khu vực và Việt Nam là một đối tác quan trọng và thậm chí có thể sẽ quan trọng hơn rất nhiều trong thập kỷ tới hơn là trong quá khứ .
6. Câu hỏi của James Manicom dành cho TS. Thủy: Theo ông thì Việt Nam chuẩn bị chấp nhận sự hỗ trợ từ phía Mỹ tới mức độ nào trong bối cảnh Việt Nam có truyền thống độc lập trong đối ngoại? Việt Nam sẽ chấp nhận sự hỗ trợ của Mỹ đến mức độ nào?
Trần Trường Thủy
Tôi nghĩ rằng nếu nhìn một cách sâu rộng về bức tranh đối ngoại của Việt Nam (đa dạng hóa và đa phương hóa) thì kể từ 1986, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với tất cả các nước trong đó có các nước lớn. Hiện nay tôi nghĩ Mỹ có vai trò ngày càng quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đặc biệt là trong hợp tác an ninh và phát triển. Trong vấn đề Biển Đông, tôi nghĩ Mỹ và Việt Nam chia sẻ nhiều điểm chung, như là tôn trọng luật pháp quốc tế, tự do hàng hải, giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, vai trò trung tâm của ASEAN, sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc… Đúng là Việt Nam và Mỹ có thể củng cố hợp tác trong những vấn đề kể trên nhưng tôi không nghĩ hai bên có thể trở thành đồng minh do nhiều nguyên nhân. Mặc dù vậy, hai bên vẫn có thể tăng cường hợp tác quân sự, bán quân sự, kinh tế, nâng cao năng lực chấp pháp. Theo tôi việc thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao năng lực chấp pháp là quan trọng nhất liên quan đến Biển Đông. Sự hiện diện của Hạm đội 7 hay Hạm đội Thái Bình Dương sẽ không tạo ra bất kỳ tác động lớn nào đối với cuộc cạnh tranh về nguồn tài nguyên hiện tại trong khu vực, điều đang chủ yếu diễn ra giữa các lực lượng chấp pháp của các nước yêu sách. Mỹkhông thể trực tiếp can thiệp vào cuộc cạnh tranh này nhưng về mặt kinh tế Mỹ có thể đóng vai trò hơn nữa. Hiện nay Mỹ đã chú trọng hơn vào đàm phán TPP, nhưng thời gian để đàm phán thành công sẽcòn khá lâu nữa. Về quan hệ kinh tế song phương chúng ta có thể thúc đẩy giống như Mỹ từng làm với Philippines. Như chúng ta đã thấy sau vụ Scarborough, sau căng thẳng giữa Trung Quốc – Philippines Trung Quốc đã áp dụng trừng phạt kinh tế với nước này. Mỹ và Nhật sau đó đã tăng cường hợp tác kinh tế với Philippines và tốc độ phát triển kinh tế của nước này đã cao hơn cả lúc trước căng thẳng. Bằng cách này Mỹ có thể da dạng hóa hợp tác kinh tế của Việt Nam và tăng cường sức mạnh tổng thể của Việt Nam trong đối phó với Trung Quốc.
Hội thảo “Những diễn biến gần đây ở Biển Đông và chính sách của Mỹ” được tổ chức bởi CSIS vào ngày 10 và 11 tháng 7 năm 2014 tại Washington D.C, Mỹ.
Người dịch: Hoàng Sơn
Hiệu đính: Minh Ngọc
No comments:
Post a Comment